Saturday, December 31, 2011

*TẾT NHỚ BẠN

 

Tết này tau chưa kịp thăm mày

Đã thấy báo đăng dòng cáo phó

Tuổi đời mày năm nay chưa "sáu bó"

Vội lên trời dành ghế thiên đàng.



Tiếc tháng năm đi dọc về ngang

Tay vói núi vạch mây đen tìm nắng

Chân khuấy nước coi sông dài hay ngắn

Chí nam nhi chất nặng ba lô

Mày và tau khoái mộng hải hồ

Đi mút chỉ quên luôn ba ngày Tết

Súng bắn kẻ thù bò la bò lết

Tạm thay cho tiếng pháo đón xuân

Thằng nào còn xót dạ bâng khuâng

Cưa lít đế với nhau bằng chén

Kẻ thù tiểu nhân nên hay bắn lén

Quân tử như mày chưa rụng sợi lông

U Minh mịt mù mìn rải đầy sông

Tàu mày hóa thành rồng bay lượn

Khiếp vía kinh hồn hét la như  vượn

Kẻ thù chạy dài té cứt tùm lum

Đánh giặc như mày đáng gọi là Trùm

Phép thần thông trong binh thư chưa có

Mỹ nhân kế cũng đành bỏ xó

Dưới mắt mày sắc đẹp tựa yêu ma

Có con đào bắt nó đợi tới già

Lúc thất chí mới trầu cau cưới hỏi

Năm tháng qua mau cuộc đời mòn mỏi

Qua Mỹ chưa lâu mày mang bệnh trầm kha

Tau biết khổ đau nó chẳng chịu tha

Những thằng có lương tâm nặng tình hơn lý.



Tau chỉ có vài dòng thơ trong trí

Viết ra đây để tưởng tiếc mày

Tết năm nay chưa rót rượu đã say...

             *PHẠM HỒNG ÂN

(Escondido, những ngày cuối năm, 28/12/2011)

Wednesday, December 28, 2011

Chiếc ghế trống

 






Chiếc ghế trống
Trống màu xanh của ngọn mây lũng lẵng
Trên vòm ngực hoài niệm
Ngày Chúa Nhật.

Chiếc ghế trống
Hun hút lời Thánh Kinh vỡ toang trái tim
Thập Tự.


Chiếc ghế trống
Vắng mặt ký ức
Giọt cà phê phin
Nhuộm đen linh hồn cuộc tình
Ta biết ta đi về đâu giữa đám đông không có dấu tích yêu thương
Em biết em đi về đâu khi không có dấu tích yêu thương giữa đám đông.


Chiếc ghế trống
Trống giấc ngủ của một thành phố lưu đày
Lính hóa thành tượng
Bom đạn mềm nhũn trên khoé môi đàn bà
Quan cởi quần đánh trận với xác con gái tan tành như đống thịt vụn
Chiến tranh biểu tượng trò chơi
Của mụ tú bà đánh cờ nơi động thạch nhũ.


Chiếc ghế trống
Ai dành cho ta khi tuổi xế chiều
Trống bóng trống hình trống tình yêu của thời vàng son nhung lụa
Trống, nhưng nặng nề nỗi đau
Cõng trên lưng ta một kiếp người chưa đủ.


Escondido, 22/10/2011

 

Hoa trăng






Ủ dưới tầng sâu thẳm thịt da
Mùa đông thở linh hồn đồi núi
Mùa hạ ngủ trái tim hang động
Mùa thu phơi nguyên thể thú cầm.

Chỉ mùa xuân mọc loài hoa trăng
Nhễ nhại đêm xuống lưng trần ngày
Xé toạc màn chắn che hào nhoáng
Từ nỗi tận cùng hoa lồ lộ chân dung.


 Ơi hoa trăng ngà ngọc hoa trăng
Thịt là đất, da là vườn phù thủy
Hạnh phúc rướn những vòng khoan kỳ dị
Rùng rục bình minh hổn hển hoàng hôn.


Ngập ngụa em trong hoa trăng cuồng thủy
Ðồi núi linh hồn vớt xác anh bay
Hang động trái tim loi ngoi lụt lội
Anh và em hóa cầm thú ngất ngây.


Escondido, 12/07/2011

 

Thursday, December 22, 2011

Tịch tịch một hư không…





Em trần truồng kiếp hoa
Treo giữa đời thơ ta
Bốn phương là ngôn ngữ
Rơi xuống cõi lòng tà.


Ta phiến núi chân rừng
Em lượn sóng lưng biển
Tịch tịch một hư không
Dẫn tình đi bất biến.


Cởi tung vần điệu cũ
Đôi vú chữ phau phau
Em nằm trong giấc ngủ
Lõa thể vẫy chào nhau…


Escondido, 03/04/2011

 

Ðêm, đi bắt sò ở biển Coronado


Tặng anh chị Nguyễn Trường

Ðội trên đầu trời cao
Ðạp dưới chân biển rộng
Sóng đẩy tình ta chao
Ðá nghiêng bờ bến động.

Ta trầm mình dưới nước
Ðêm khuya lắc khuya lơ
Những con sò trắng mướt
Cắm đời dưới cát tơ.


Em đi riêng một cõi
Nước vỗ trắng bàn chân
Tóc bay tung bóng tối
Bãi xa chợt hóa gần.


Ngọn đèn chưa soi thấu
Trái tim cất trong bờ
Ta nằm lăn dưới nước
Sóng bủa bạc đầu thơ.


Ôi, Coronado
Ðêm khuya lắc khuya lơ
Ta trầm đời dưới biển
Trời tháng tám, mùa sò…


 

PHÙ ÐIÊU


*Truyện Ngắn

                 PHÙ ÐIÊU

                                 .Phạm Hồng Ân



   Tôi dắt chị Phiến đi lòng vòng quanh phố. Hội An huyền bí dưới bóng đêm. Ánh sáng trầm mặc hắt xuống từ những chiếc lồng đèn đỏ rực, khiến thành phố cổ này như sống lại từ thần thoại, từ những trang cổ tích hoang đường.

   Chị Phiến chăm chú ngó từng hoa văn thanh thoát trên mỗi chiếc lồng đèn.

-           Ðẹp quá! Nó được sáng tạo từ bàn tay sắc sảo của Bác Sáu, của Luân phải không?

-           Bàn tay của Ba và em đầy những vết cắt, vết chai...trong suốt những năm tháng đeo đuổi nó.

   Chị Phiến chợt nắm lấy bàn tay tôi, sờ nắn từng ngón, rồi thở dài :

-           Nghệ thuật nào...đều cũng trả giá đắt, phải không Luân?

   Tôi để bàn tay tôi nằm yên trong lòng tay chị Phiến. Hình như, buông xuôi như vậy, tôi thấy an tâm, ấm cúng một cách thân thương hơn. Từ trước, tôi chưa hề quen chị Phiến. Chỉ biết chị cách đây vài hôm. Khi cô tôi chở chị về Hội An, nhân dịp giỗ Nội . Cô tôi có nhà cho thuê ở Ðà Nẳng, và chị Phiến, là một trong những người đến trọ, suốt những tháng năm đi học.

   Cũng trong dịp giỗ này, cô tôi đã quyết định :

-           Thằng Luân phải lên Ðà Nẳng học, lấy bằng tú tài. Anh không thể để nó nhởn nhơ ở đây với cái nghề đèn lồng mạt rệp này được.

   Ba tôi vươn vai, đứng dậy. Ông tiến tới bàn thờ, khục khặc ho :

-           Tôi không nuôi nổi nó? Tiền học, tiền ăn, tiền nhà...hàng tháng. Ai lo?

   Cô tôi vỗ ngực, la lớn :

-           Tôi lo. Tôi lo tất. Nó về quản lý nhà trọ cho tôi. Dọn dẹp, quét sân, thâu tiền   nhà...Ngoài các việc đó, nó tự do học.

   Thế là, tôi theo chị Phiến ra Ðà Nẳng, tiếp tục công việc sách đèn. Chị Phiến dắt tôi ra trường Phan Thanh Giản ghi danh. Dắt tôi mua sách, sắm những vật dụng cần thiết trong ngày. Tôi được quản lý nhà trọ của cô tôi. Căn nhà có tầng gác màu xanh, ngó ra con đường đầy bóng cây cổ thụ.

   Trường Phan Thanh Giản tuyệt đẹp. Ðó là một trường tư thục nổi tiếng nhất Ðà Nẳng. Mùa hè, hàng phượng trước sân rực đỏ những cánh hoa. Hoa phượng khoe hương khoe sắc một thời gian, rồi cũng tàn phai, rơi xuống sân, nằm bẹp dưới gót giày hay gót guốc của học trò. Chị Phiến đa cảm, thường nhìn phượng lã chã rơi mà mang mang khóc thầm. Chị nói, mỗi cánh phượng là hiện thân của mỗi sinh mệnh học trò. Rồi mỗi chúng ta, dù có sáng chói hay lu mờ trong kiếp sống, sau đó cũng phải nhạt phai, lùi vào ký ức.

   Phòng chị Phiến kề cận phòng tôi, cách nhau bởi một bức ván mong manh. Cuối tuần, học trò về quê, chỉ còn tôi và chị  Phiến ngồi ôm cô đơn trong căn nhà mênh mông. Ðể lấp khoảng trống này, chị Phiến bày ra nấu ăn. Ðôi lúc chị nấu cao lầu, món ăn truyền thống của Hội An để đãi tôi. Ðôi lúc, chị nấu mì quảng, ăn với rau sống và bắp chuối xắt nhuyễn. Tô mì quảng của chị, làm mê mẩn tâm thần tôi, từ lúc vừa ăn tô đầu tiên. Nước lèo xương hầm trong leo lẻo, ngọt ngào đến tận bao tử. Và tô mì quảng đậm đà dân tộc đó, đã đem chị Phiến đến gần tôi, như lá với cành.

   Chị Phiến không đẹp. Mặt lại rỗ hoa mè. Nhưng thân hình chị rất sinh động. Bộ ngực cứ tăm tấp vung lên, mỗi ngày mỗi dâng cao. Chị như một thứ rơm thèm lửa bén. Một thứ rơm chưa biết độ nóng của lửa, chưa biết niềm mãnh liệt tột cùng của sự cháy, của trận hỏa hoạn đời người. Rồi, chuyện gì đến cũng sẽ phải đến. Và nó đến vào một đêm mưa lạnh lẽo, giữa thinh không mông mênh, chỉ có tôi và chị.

-           Luân ơi! Chị lạnh quá! Chắc bị cảm rồi...

   Tôi tung mền chạy qua. Căn phòng tối tăm và vắng ngắt như cỗ quan tài. Chị Phiến trùm mền, rên hừ hự trong đó.

-           Chị uống thuốc chưa? Lấy thuốc cho chị  nha?

-           Uống rồi. Vẫn không bớt. Luân ơi! Lại đây, cạo gió dùm tôi đi!

   Ðèn ngủ bật sáng. Vạt áo kéo ngược lên bả vai. Chiếc coọc – xê mở tung. Hai mảnh vải máng hờ hững lên hai núm vú nhọn lểu. Tấm thân kiều diễm, mềm mại của chị Phiến phô ra trước ánh đèn. Tôi ngơ ngác nhìn quanh gian phòng. Rồi hoài nghi, đinh ninh đó chỉ là giấc mộng. Nhưng ý nghĩ vừa loé lên, chợt đã bị bàn tay ma lực của chị Phiến lôi tôi ngã nhoài. Thế là chúng tôi loay hoay, giằng co, níu kéo nhau trong niềm hoan lạc tột cùng nhất của thân xác.

   Nếu không có người con gái thứ hai xuất hiện, chẳng biết cuộc tình phiêu lưu của tôi và chị Phiến sẽ trôi giạt đến đâu? Người con gái này xuất hiện vào một chiều cuối tuần, khi chị Phiến từ Tam Kỳ lên, sau những ngày về quê nghỉ lễ. Từ xa, dưới bóng mát của hàng cổ thụ trầm mặc, tôi thấy cô bé lẽo đẽo theo chân chị Phiến, dè dặt bước lên sân nhà. Chị Phiến đã vào trong, đặt túi xách lĩnh kĩnh xuống ghế, trong lúc cô bé vẫn ngơ ngác ngoài cửa, lúng ta lúng túng một cách thẹn thùng.

-           Cháu tôi đó. Kêu bằng Dì. Nó tên Phù Ðiêu, cùng học Phan Thanh Giản với mình. Lớp đệ ngũ.

   Tôi nở nụ cười thật tươi chào cô bé. Cố tình xóa đi dấu vết ngại ngùng của người khách lạ dễ thương.

-           Tự nhiên đi Phù Ðiêu. Tôi cũng trọ học, quê Hội An.

   Phù Ðiêu lúng lắng mái tóc dài. Những sợi tóc như những sợi tơ trời, lõa xõa lòa xòa trước vầng trán thanh tú.

-           Con bé muốn nhờ tôi kèm Toán. Nhưng tôi thấy Luân giỏi Toán nhất lớp. Ðịnh nhờ Luân giúp cháu đấy!

   Tôi xoa xoa hai tay vào nhau, gật gù:

-           Sẵn sàng. Chỉ sợ Phù Ðiêu kén thầy thôi!

   Ðôi má Phù Ðiêu chợt ửng đỏ. Càng bẽn lẽn, ánh mắt nàng càng long lanh một cách não nùng. Chị Phiến đưa cho tôi một trái quít to:

-           Con bé mồ côi cha, từ nhỏ. Sau này, có Dượng, cũng như không. Ông ta chỉ muốn Phù Ðiêu thôi học, kiếm tiền đem về gia đình.

   Tôi chợt nghĩ đến ba tôi. Những năm tháng lao lung, tận tụy với nghề lồng đèn, để mong nuôi bầy con ấm no một cách yên bình. Tội nghiệp, Phù Ðiêu mất Ba. Cô bé đã mất đi một tình thương bao la, không tình thương nào có thể bù đắp được.

   Thời gian lặng lẽ trôi qua. Phù Ðiêu và tôi, càng ngày càng gắn bó như hình với bóng. Cứ mỗi cuối tuần, lúc có chị Phiến, tôi đóng trọn vai một người thầy đàng hoàng, hướng dẫn cô học trò ngoan ngoãn những bài toán hóc búa trong chương trình đệ nhất cấp trung học. Khi chị Phiến về quê, tôi đèo Phù Ðiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, rong chơi khắp nơi. Có lần, hai đứa chạy một mạch đến Ngũ Hành Sơn, tìm một chỗ vắng vẻ nào đó, ngồi bên nhau, nhìn mây trôi lơ lửng trên các cụm núi huyền bí. Hoặc chở nhau ra bờ sông Hàn, ngó các chuyến tàu tấp nập trôi ngang, mà tưởng tượng đến cảnh chia ly đau lòng của những cuộc tình thơ mộng. Cho tới một hôm, chị Phiến trở về bất chợt, tình cờ bắt gặp tôi ôm hôn Phù Ðiêu trong góc gác vắng vẻ. Chị Phiến đùng đùng nổi giận. Chị hùng hục kéo Phù Ðiêu ra khỏi vòng tay tôi, rồi sòng sọc nhìn tôi như kẻ tử thù.

-           Tôi lạy Luân. Tôi xá Luân. Phù Ðiêu còn nhỏ. Kính mong đại ca tha dùm con bé.

   Tôi luống cuống. Tôi hoang mang trước cơn giận dữ của chị Phiến. Nhưng giây lát, trái tim đã tự nhiên trả lời chị – bằng lý lẽ riêng của nó.

-           Phù Ðiêu 15. Tôi 18. Chúng tôi thương nhau, nào có chi lạ đâu? Rất bình thường, chị Phiến ạ!

   Chị Phiến bỗng nghiến răng trèo trẹo. Giọng nói đứt quãng. Hơi thở dồn dập.

-           Bình thường hả? Ðồ...khốn...nạn...

   Phù Ðiêu buồn bã bỏ về. Chỉ còn tôi và chị Phiến  ngồi ôm trống vắng trong căn gác mênh mông bóng tối. Lúc lâu, tôi nghe tiếng chị Phiến khóc. Tiếng khóc rất âm thầm, nhưng trong thinh không tĩnh lặng, nó vang dội một cách bi thương, tức tưởi. Tôi chạnh lòng, tiến đến, đặt bàn tay lên vai chị.

-           Xin lỗi. Chị hãy bao dung và tha thứ cho tôi.

   Chị Phiến chợt cầm lấy tay tôi, sờ nắn từng ngón, rồi nhẹ nhàng đưa thẳng lên môi chị, hôn một cách ngon lành. Lúc này, tôi không còn cảm giác như ban đầu, không còn cảm thấy ấm cúng, thân thương như ngày xưa nữa. Tôi đành thở dài, đẩy chị Phiến ngã vào thành ghế.

-           Luân ác lắm! Luân định xem tôi như kẻ qua đường ư?

-           Không, chúng mình vẫn là bạn. Bạn thân với nhau. Dễ chi phôi pha được chị?

-           Bạn ư? Còn trinh tiết? Còn tình yêu đầu đời tôi dành trọn cho Luân thì sao? Phôi pha chăng?

   Tôi ngó ra con phố. Con phố sâu thăm thẳm. Thăm thẳm như đôi mắt đầy tuyệt vọng của chị Phiến. Tôi biết nói sao với chị Phiến bây giờ? Tôi phải giải thích thế nào về tình yêu của tôi? Và về sự mất mát quá đau thương của chị?

   Dần dà, tôi cũng lên đại học. Trong lúc chị Phiến thi rớt, khóc đến sưng vù đôi mắt. Chị Phiến đau khổ vì đường công danh trắc trở, lại ôm thêm nỗi thất tình ngao ngán, đành bỏ về quê biệt tông biệt tích. Tôi dò dẫm bước chân trên ngưỡng cửa đại học một cách chán chường. Gia tài cô tôi đã khánh kiệt, chỉ còn lại mảnh đất vụn nát, rẻ rúng, trôi nổi theo thời gian. Và nghề lồng đèn của ba tôi cũng lùi vào quá khứ. Nét văn hóa cổ truyền của dân tộc bị ngã quỵ, trước sức tấn công ồ ạt của nền văn minh hiện đại, đang ngày đêm đổ ập vào phố cổ Hội An. Tôi đành đi lính. Tìm công hầu khanh tướng trên các bãi chiến trường.

   Ðêm cuối, trước ngày lên đường nhập ngũ, Phù Ðiêu ngồi suốt đêm bên tôi, trên căn gác cô tôi. Ðêm đó, tôi hôn cô bé như mưa bấc. Và những nụ hôn nồng nàn đã làm cô bé cảm động, long lanh ngấn lệ. Cuối cùng, không ngăn nổi sức mãnh liệt của tình yêu cuồng dại, tôi đẩy Phù Ðiêu té ngửa xuống nền giường. Khi hàng cúc áo mở tung. Tấm vải cuối cùng sắp tuột khỏi thân xác ngà ngọc. Bỗng cô bé bật dậy, kéo nhanh chiếc mền quấn chặt vòng ngực.

-           Anh tiến tới bước nữa. Em sẽ cắn lưỡi chết ngay đây.

   Tôi sửng sờ, kinh ngạc trước phản xạ kỳ lạ của Phù Ðiêu.

-           Sao? Sao em phải cắn lưỡi? Bộ em không thật sự yêu anh?

-           Yêu. Ðâu phải như vậy?

   Phù Ðiêu lạnh nhạt bỏ xuống cầu thang. Nàng ngồi bệt xuống sàn, âm thầm ngó ra hàng cổ thụ mịt mùng. Tôi loay hoay chạy theo, tha thiết nói với nàng lời xin lỗi thống thiết nhất. Chẳng bao lâu, Phù Ðiêu cười tỏn tẻn :

-           Anh ơi! Trong đời em, chỉ có mình anh thôi! Và em hứa, em sẽ yêu anh đến suốt đời, suốt kiếp...Anh có bằng lòng không?

   Chiến trường điên đảo. Mặt trận sôi đọng. Bạn bè mỗi lúc một vơi đi. Khiến mộng công hầu khanh tướng của tôi như viên đạn bay vèo. Mặc dù trấn đóng ở tiền tuyến xa xôi, tôi vẫn nhận được những cánh thư dễ thương của Phù Ðiêu đều đều. Thư nào cô bé cũng viết dài sòng sọc. Ðọc xong, tôi cảm thấy cõi lòng dường ấm lại, như có ai nhen bếp lửa đầu tiên trong mùa đông lạnh lẽo vô cùng.

   Rồi, ngày trở về, nghỉ phép thường niên. Má tôi bắt tôi phải lấy vợ. Má muốn tôi có mái ấm gia đình. Muốn có người xan xẻ cùng Má những lo toan, những thương nhớ về tôi, như một đồng hành tri ngộ. Tôi lật đật tìm Phù Ðiêu, nói cho nàng biết niềm hân hoan tuyệt đỉnh đó.

-           Phù Ðiêu ơi! Anh báo cho em tin mừng. Kỳ này, Ba Má anh sẽ mang trầu cau qua đây, cưới em cho anh đấy!

   Phù Ðiêu đang vui, chợt ủ mặt xuống.

-           Không bao giờ em nhận lời lấy anh đâu! Không bao giờ có ngày đó!

   Tôi kinh ngạc, sửng sốt trước câu nói quá bất ngờ và vô cùng kỳ lạ của Phù Ðiêu. Câu nói như con dao, cứa trái tim tôi vỡ tung trăm mảnh.

-           Ồ, Sao em nói vậy? Hay em có gã đàn ông nào khác?

   Phù Ðiêu chạy như bay ra sân cỏ. Nàng ngồi phịch xuống bờ ao, ngắt từng bông hoa dại, ném phăng xuống dòng nước. Tôi lúp xúp theo nàng, trần tình, và nói những lời đau khổ nhất của một kẻ bị phụ tình. Chẳng bao lâu, Phù Ðiêu lại tỏn tẻn cười.

-           Trái tim em duy nhất chỉ có bóng hình anh. Anh là thành trì, là bóng mát...để em suốt đời trú ẩn một cách an toàn.

-           Vậy sao em từ chối hôn nhân? Từ chối xây dựng hạnh phúc?

   Phù Ðiêu bỗng ôm mặt, khóc nức nở :

-           Hôn nhân? Hạnh Phúc? Em không thích những thứ đó...

   Tôi không thể đợi Phù Ðiêu suốt đời suốt kiếp, như nàng hứa sẽ yêu tôi suốt kiếp suốt đời. Má tôi đã cưới vợ cho tôi, một cô bé làm lồng đèn, cùng quê Hội An. Vợ tôi vừa xinh đẹp, vừa siêng năng tận tụy với nghề. Nàng có thể nối nghiệp Ba tôi, chia xẻ từng giọt mồ hôi, từng giọt nước mắt với gia đình. Tuy vậy, bóng dáng Phù Ðiêu vẫn hiển linh trong trái tim tôi một cách rộng lớn. Nàng mãi mãi là dấu hỏi kỳ lạ, nhưng đầy yêu thương, làm chao động đời tôi đến giây phút cuối cùng.

   Bếp lửa, rồi có lúc sẽ trở thành tro than. Binh đao cũng vậy. Nó sẽ tàn cuộc, tàn trận. Mấy năm tìm công hầu khanh tướng trên các bãi chiến trường. Tôi chỉ tìm đưọc chính mình, sau khi đã mất đi tất cả. Tôi tìm đưọc chính mình qua hình ảnh tù binh, qua số phận kẻ bại trận trong các trại lao động dã man nhất thế kỷ. Rồi, tôi trở về. Trở về như đi lùi lại quá khứ. Mở toang các cánh cửa kỷ niệm. Thăm dò những dấu vết thân yêu.

   Tôi trở về. Phù Ðiêu vẫn vậy. Nàng vẫn cô đơn, lặng lẽ đứng bên lề thế nhân, ngó thời cuộc thăng trầm. Mười năm đằng đẵng xa nhau, gặp lại, nàng cũng ngoan ngoãn ngã đầu vào vòng tay tôi, sẵn sàng đón nhận những nụ hôn ngọt ngào. Ðêm đó, hai đứa lại thức trắng, trong ngôi nhà của Mẹ nàng, ở ngoại ô Ðà Nẳng. Ðêm đó, chỉ có Phù Ðiêu và tôi, hai đứa ngồi nhìn bóng mình lăn nhau trên vách. Bà Mẹ vừa về quê, tuần trước. Ông Dượng thì bỏ đi mất dạng, từ lúc cộng sản chiếm đóng thành phố này. Ðêm đó, đối diện với Phù Ðiêu, tôi chợt buồn vô hạn. Tôi rót rượu uống liên tu. Cạn ly này đến ly khác. Uống đến lúc Phù Ðiên bực dọc, ném chai rượu vào góc nhà. Mất rượu, tôi lại cà kê than thân trách phận. Tôi tả oán đến nỗi Phù Ðiêu khóc sướt mướt, hai tay nàng ôm đầu quằn quại một cách xót xa. Rồi, dục vọng lại dâng lên, khiến tôi nhào tới, ôm Phù Ðiêu quăng lên chiếc giường.

-           Anh...anh yêu em. Suốt kiếp yêu em. Hãy cho anh kỷ niệm. Một kỷ niệm để đời...

   Thình lình, Phù Ðiêu bật dậy. Nàng lồm cồm đứng lên, nhìn tôi giận dữ.

-           Anh muốn em cắn lưỡi chết cho anh vừa lòng phải không? Muốn không?

   Tôi đau khổ, quỵ xuống bên nàng.

-           Anh xin lỗi. Bỡi yêu em quá, nên...không chủ động được...

   Phù Ðiêu cứng rắn.

-           Hãy trở về với vợ con anh đi! Hạnh phúc đang chờ anh đấy!

-           Còn em? Em không yêu anh sao?

-           Yêu anh, em mới mong anh được hạnh phúc. Yêu anh, em mới  vò võ cô đơn đến ngày hôm nay. Anh hiểu không?

   Tôi đưa hai tay lên trời, tức tối, rồi la toáng lên :

-           Trời ơi! Em có điên không Phù Ðiêu? Tại sao em kỳ lạ và bí ẩn như thế?

   Tự dưng, tôi muốn bỏ đi. Muốn không còn thấy bóng dáng Phù Ðiêu nữa. Muốn bôi xóa một cuộc tình, có tông tích mịt mù như sương khói. Cuối cùng, tôi cắm đầu cắm cổ chạy hụt hơi ra phố. Và lang thang suốt đêm...giống một tên điên.

   Sau năm tháng lưu đày ở rừng sâu, dường như Thượng Ðế đãi bôi tôi, bằng cách đưa gia đình tôi định cư ở Mỹ. Ra đi, tôi chấp nhận tất cả. Chấp nhận mất mát, đau thương. Kể cả tình yêu kỳ lạ và bí ẩn của Phù Ðiêu. Tình yêu đó, nếu không hư vong, cũng chỉ là cái vòng luẩn quẩn, quanh co, một cách hão huyền.

   Gần mười lăm năm nơi xứ người, tôi lầm lủi bôi xóa tông tích kỷ niệm. Bóng dáng Phù Ðiêu vừa phai nhạt trong tôi, thì bỗng một hôm, có tiếng điện thoại từ Việt Nam vang lên, đưa tôi trở lại quá khứ chập chùng.

-           A lô, tôi báo cho Luân một tin buồn. Phù Ðiêu đang trong cơn bạo bệnh. Bác sĩ cho biết, trong nay mai, nó sẽ giã từ cõi đời. Nếu có lòng, xin Luân hãy về thăm nó lần cuối. Nó vẫn cô đơn. Và nhắc Luân hàng giờ...

-           Hả? Chị Phiến đó ư? Chị nói sao? Chị....

   Tôi chưa kịp hỏi thăm chị Phiến, hỏi thăm Phù Ðiêu. Chưa kịp thắc mắc về số điện thoại của tôi, sao chị biết được? Thì ở đầu giây bên kia, chị Phiến đã cúp máy rồi.

   Tôi rơi bịch xuống sofa. Trái tim chợt quặn đau, nhoi nhói trong lồng ngực. Phù Ðiêu – cho tới bây giờ – vẫn cô đơn, vẫn nhắc đến tôi hàng giờ ư? Nàng cô đơn để chờ ai? Ðợi ai? Trong khi nàng khăng khăng cự tuyệt lời cầu hôn chân thành, tôi đã dành riêng cho nàng.

   Tôi trở lại Việt Nam đúng ngay ngày thi hài Phù Ðiêu vùi sâu trong lòng đất. Lần cuối, tôi đã không kịp nhìn mặt nàng. Thà như vậy, cũng được. Hãy để tôi thả hồn về quá khứ, tưởng tượng một khuôn mặt học trò dịu hiền và dễ thương biết bao. Hãy để tôi âm thầm mặc niệm cuộc tình, thứ cuộc tình trong sáng như kim cương, nhưng cũng bí ẩn và kỳ lạ như núi thẳm rừng sâu.

   Chị Phiến lặng lẽ trao tận tay tôi quyển nhật ký dày cộm của Phù Ðiêu, rồi âm thầm rút lui. Tôi ngã bật xuống gờ cỏ, run run lật từng trang, đọc ngấu nghiến một cách đau lòng. Trời ơi! toàn bộ nhật ký, suốt cuộc đời của Phù Ðiêu, chỉ viết về tôi. Rồi, một trang nhật ký nhoè nhẹt nước mắt đã đập vào trí tôi, giải mã điều bí ẩn và kỳ lạ về nàng mà tôi đã từng thắc mắc, trách móc.

   “...Luân yêu, em đã hứa sẽ yêu anh suốt đời suốt kiếp kia mà. Anh hãy tin ở em đi! Nếu không lấy được anh, em thề sẽ ở vậy, cô đơn trọn đời, cho đến khi trở về cát bụi. Anh ơi, em  từ chối lời cầu hôn ngọt ngào của anh mà đau xót lắm. Anh biết không? Năm 14 tuổi, em đã bị người Dượng ghẻ thô bạo cưỡng hiếp, cướp đoạt trinh tiết mất rồi. Anh ơi, em đã không đẹp, lại không giàu, thì chỉ còn lòng trinh bạch đầu đời để dâng tặng cho chồng mình chứ!Thế mà, em mất tất cả. Làm sao em có thể xứng đáng làm một người vợ hiền của anh được???....”

   Trang nhật ký đã nhòe nhẹt nước mắt của Phù Ðiêu, giờ đây lại đẫm thêm những giọt nước mắt muộn màng của tôi. Ôi, Những giọt nước mắt chồng lên nhau, em có thấu hiểu cho anh không, hỡi Phù Ðiêu!!!

                                                               *PHẠM HỒNG ÂN

                                                             (San Diego, 09/05/2008)

  



 

Wednesday, December 21, 2011

*NHÂN ÐỌC TẬP TRUYỆN “ THỜI KIÊU BẠC ”


*NHÂN ÐỌC TẬP TRUYỆN “ THỜI KIÊU BẠC ”

                      CỦA TÁC GIẢ PHẠM HỒNG ÂN.

                              .Bài viết của TIẾT THỊ TRUNG TRINH



   Tập truyện THỜI KIÊU BẠC in xong, hình như tôi là người được tác giả trao tặng trước tiên, như lời nhắn nhủ, gửi gấm số phận một tác phẩm.

   Số phận một tác phẩm cũng là số phận người lính. Từ lúc chạm trán với chiến tranh, cho tới lúc kết thúc chiến tranh, rồi vào tù, rồi qua Mỹ...sống lay lắt với quá khứ vừa hùng tráng vừa bi thương của mình.

   THỜI KIÊU BẠC gồm 13 truyện ngắn, xoay quanh đề tài người lính. Tác giả như vẫn còn ấm ức, vẫn còn tức tưởi về nỗi chiến bại của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tác giả muốn quá khứ sống lại, muốn nhân loại mở mắt nhìn lại chiến tranh Việt Nam, để cùng nhau phản đối sự phi lý cùng cực, từ những dư luận hoang tưởng.

   Tôi đọc THỜI KIÊU BẠC bằng cảm giác hồi hộp, như đang ngồi trên chiến đỉnh với tác giả, trải qua những trận đánh nguy hiểm trên sông. Như ngụp lặn với cơn bão trên biển. Như chìm đắm trong những mối tình lãng mạn thời chiến. Những mối tình ngắn ngủi và mong manh tựa sương khói.

   THỜI KIÊU BẠC còn dắt tôi vào các trại tù. Những trại tù bẩn thỉu, chật hẹp, dơ dáy...của chế độ cộng sản. Ở đó, tù nhân bị lùa vào rừng sâu lao động khổ sai. Bị đánh đập tàn khốc. Bị giết chết dã man. Hoặc bị thủ tiêu một cách bí mật.

   Thân phận người lính rất gian truân, bất hạnh. Rồi cuối cùng, trôi giạt khắp nơi trên trái đất. Trong THỜI KIÊU BẠC, dù nằm gai nếm mật, trăm đắng ngàn cay, người lính vẫn giữ lòng nhân đạo bao dung, kể cả đối với kẻ thù không đội chung trời. Truyện ngắn VƯỢT TRẠI, cho tôi một ý niệm về tình người, một ý niệm nhân đạo hiếm thấy trong các cuộc thư hùng sinh tử.

   Mặc dù chiến tranh đã đi qua. 32 năm rồi. Lịch sử vẫn bị kẻ thống trị, kẻ có thế lực vo tròn bóp méo. Những trang sử trong sạch bị tô hồng hoặc bôi đen. Những trang sử hùng tráng dễ trở thành bi thống hoặc ô nhục. Hãy trả sự thật, hãy trả những điều trung thực về cho lịch sử!

   Mặc dù chiến tranh đã đi qua. Những nhân vật như: Cần - lù, Thái – dúi, Các – lu, Thu – đạm...trong MÙA NƯỚC RÚT vẫn bất tử. Những nhân vật biểu lộ đặc tính của mỗi người lính. Những người lính tiếu lâm trong đồng đội, nhưng luôn quyết chiến một mất một còn với kẻ thù ngoan cố.

   Trong quyển sách trước, trong thi phẩm : “ THIÊN CỔ BÙI NGÙI ”, tác giả Phạm Hồng Ân có đoạn thơ như sau :

                         “...Ba sẽ dẫn con ra bìa rừng cũ

                              Nơi đạn bom ác liệt cuộc giao tranh

                              Ðồng đội Ba – những nấm mồ vô chủ

                               Thân xác tan, hờn vong quốc chưa tan...”

                                         ( Năm năm rời cố xứ – thơ Phạm Hồng Ân)

   Rải rác trên quê hương ta, hiện nay, kể cả Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa...còn vô số những nấm mồ tử sĩ vô chủ. Những người lính nằm xuống cho chính nghĩa, chết vẫn chưa yên – đã bị kẻ thù cách ly, cô lập với gia đình, quyến thuộc. Những ngôi mộ bị cầm tù. Những ngôi mộ quanh năm lạnh lẽo, hoang sơ, không nhang khói – như một di chứng đau thương cho tập thể chúng ta :

                            “...Ta biết anh nằm dưới huyệt sâu

                                 Nghìn năm tức tưởi vết thương sầu

                                 Vết thương bóp nát tim người lính

                                 Máu nhỏ thành tang khắp địa cầu...”

                                           ( Bốn năm rời cố xứ – thơ Phạm Hồng Ân )

   THỜI KIÊU BẠC, tựu trung, là một quyển sách không thể thiếu được, trong tủ sách của người lính và những người yêu lính.

   Muốn có tập truyện trên, xin các bạn liên lạc với tác giả, ở địa chỉ :

                                  *Phạm Hồng Ân

                                    900 Howard Ave.

                                    SPC 83

                                     Escondido, CA 92029

              hoặc Email : phamhongan2004@yahoo.com.com

    Trân trọng kính chào.

                                                      .TIẾT THỊ TRUNG TRINH

                                                          ( Alexandria, 16/02/2009 )


Thất nghiệp


Cọng French fry cuối cùng
Trôi tuột vào cổ họng
Tấm napkin trắng bệch
Không còn thứ gì tống vào thùng rác.


Trống rỗng nỗi cô đơn
Xẹp lép niềm mơ ước
Cơn lốc bill cuốn xoáy căn phòng
Lung lay cội phần gốc rễ.

Em như chiếc gương
Rơi ào xuống nền gạch
Vỡ tung toé nghìn mảnh.
Khéo léo cách mấy
Cũng ráp được một khuôn mặt vô hồn
Chằng chịt vết thương thời thế.


Nắn nót résumé bằng nước mắt và mồ hôi
Nước mắt thằng lính thằng tù
Thằng của bốn mươi năm đời đá
Mồ hôi tên thợ tên thầy
Tên của hai mươi năm Mỹ hóa
Trường giang đại hải khổ ngôn
Cũng không bằng cái lắc đầu của Xếp.


 Gõ cửa Agency
Ðứng ngáp ruồi đợi số
Hóa rắn hóa rồng hóa đá
Suốt ngày
Thà hóa ra dạ dày
Ðựng no tròn lời cám ơn của Xếp.


Vào Google mò các website
Post quá khứ lẫy lừng trên đó
Giống như những tấm bia lưu danh
Ðứng què quặt với thời gian
Phai tàn theo triều đại.


Cọng French fry cuối cùng
Ra đi cùng bước chân em
Sự nghiệp biến thành sợi dây thòng lọng
Thắt cổ tình yêu anh…


Escondido, 03/09/2011

Buổi sáng ở Moonglow Park


Vắt âm thanh rải lên mặt nhựa
Con đường ôm lá vàng
Dẫy chết những gốc bách tùng
Chiếc xe liếm gót chân
Ngày trệu trạo ánh sáng
Ðẻ dài dài trên táng lá chòm cây.


Dãy Moonglow Mobile Home Park khò khè ho
Bằng tiếng nước xịt cỏ trèo trẹo trong sân
Nước xóa sạch dấu sương long lanh
Khóc với bóng đêm những điều thầm kín
Nước trộn bụi với phân chó
Quết đặc quánh vào trái tim công viên.


Có người đi như một thằng điên
Gót chân dẫm nát dấu xe
Ðá lá khô bay xào xạc góc ngày
Ánh sáng nhốt trong túi áo
Chèm nhèm giọt Cordon Bleu đêm qua
Thằng điên nổi khùng hóa thành tên khủng bố
Quăng vào cuộc tình một trái bom tim.


Escondido, 16/07/2011

 

Phố núi hư không


Túm mặt trời trong túi áo blouson
Thả buổi sáng rong chơi phố núi
Ðời úp mặt vào đôi tay trần trụi
Trốn mùa thu vừa vàng úa phù vân.

Núi căng vung như bầu ngực tình nhân
Nằm đẩy đà phô đường cong phố trọ
Rướn leo dốc bắt đỉnh đầu ngọn gió
Hứng mây trôi lọt thỏm kẻ tay trời.


Ðá lềnh khênh đập vào mắt chơi vơi
Ðá uốn tượng hình nữ thần tình ái
Sợi tóc nào phả hương lài ngai ngái
Trói mặt trời nhốt túi áo blouson.


 Ngày rụt rè hóa núi thành sông
Sông ngập lụt dìm phố chìm úng thủy
Ngàn sợi tóc tựa ngàn tia phù thủy
Treo tình yêu lên thập giá khổ hình.


Hạnh phúc trườn. Tuột dốc. Thất kinh
Túi áo thủng vết mặt trời cháy xém
Xuyên lồng ngực một góc tim hoài niệm
Em. Anh. Và phố núi hư không…


Escondido, 17/09/2011

 

 

 

Tuesday, December 20, 2011

Ngưỡng cửa xuân sáu mươi


                (đến Mây)
Xuân như mụ phù thủy hung hăng gõ cửa đầu năm
Trao chiếc bùa niên kỷ quái dị
......
Báo hiệu tình yêu chất phác của chúng ta
Tăng thêm một tuổi già
Rút ngắn thời gian đi vào kiệt đạo.

Xuân vội vàng gỡ đi tờ lịch năm cũ
Xóa bỏ mỹ miều duyên dáng ngày xưa
Trác phấn bôi son trên khuôn mặt nhăn nheo bạc nhược
Và chất gánh nặng lên vai anh
Bắt lê la khắp hang cùng ngõ cụt.

Xuân tạt vào mặt anh những vinh quang ô nhục
Xé toạc đi hạnh phúc nồng nàn vốn dĩ hiền lương.

Xuân bản nháp mùa đông
Rưới băng tuyết lạnh lùng lên mái tóc trăm năm óng ả
Lùa bầy quạ bạo tàn dẫm nát làn da mềm mại ngọc ngà.

Xuân vắt kiệt mật ngọt
Từ tuổi thanh xuân cường tráng
Cho bờ môi tuế nguyệt tiêu điều
Và đôi mắt ngập ngụa thước sông
Thời thủy lưu thịnh vượng
Giờ nằm phơi bùn hiu hắt phù sa.

Trước ngưỡng cửa sáu mươi
Xuân như ngòi nổ chiến tranh sắp bùng lên lở đất long trời
Chỉ tiếc anh là tên lính nhát gan
Đầu hàng số phận
Lơ láo nhìn tình yêu mình...
Dần dần trở thành âm bản...

.PHẠM HỒNG ÂN
(San Diego, 01/02/2010)


Rêu



             (bài cuối cho rêu)

Thử phác họa một chân dung

Rêu

Mái ngói, thềm hoang, vách đá, trái tim

Rêu

Cắt chân trời phết màu

Rêu

Nặn vạt mây tô sắc

Rêu

Khung vẽ là tiền sử quá khứ

Rêu

Hun hút như những hang động đau thương

Rêu

Lót ổ cho tình yêu chết đuối

Rêu

Dưới đáy hồ thăm thẳm thời gian

Rêu

Nơi không gian dường vô cùng

Rêu

Nơi huyễn hoặc hư ảo bóng tối

Rêu

Và chân dung chỉ là một thứ phác họa lập dị

Rêu. 



 (Escondido, 01/07/2010)

PHẠM HỒNG ÂN

Lá thu









Lá quặn mình cuốn lòng sông chảy ngược

Ðêm oằn lưng bám riết dấu chân ngày

Nhá nhem ta nặng sầu như con nước

Cuồng lăn theo chiếc lá giữa dòng quay.



Tan tác nhau vỡ tung đời nghìn mảnh

Chim ngậm trời kéo mây gió tha phương

Dốc tuột núi chìm đáy sâu tuyệt tận

Cổ tích bay từ huyệt đất quê hương.


 Ðớn đau ta như chiếc lá đoạn trường

Vai nhược tiểu cõng mùa thu sầm uất

Ðời bất hạnh đeo thẻ bài bất khuất

Cùm thiên thu thành bia đá lưu danh.



Lá cuộn đời chảy ngược một vòng quanh

Hay cuốn tới ngập dòng xuôi nhấp nháy

Trái tim rớt trên hàng cây vàng cháy

Xám góc trời nứt rạn khúc mây trôi.



Ðìu hiu em ngủ trong tiếng mưa rơi

Nơi thành phố có ánh đèn thất chí

Có bài thơ mang ngữ ngôn thần bí

Xác thơ là xác lá cuốn lòng sông.

                    *PHẠM HỒNG ÂN

                  (Escondido, 28/11/2011)

*HÀNH TRANG CON CHỮ



Xếp con chữ vào hành trang
Gửi cho em hàng trăm bài thơ đi vào huyền thoại
Ký ức dở dang
Cuộc tình tả tơi như mảnh giấy vụn.
Thà là mặt trăng
Để em hiểu đêm bí ẩn hơn ngày
Thà là mặt trời
Để em nghĩ ngày sâu thẳm hơn đêm
Thà là hang động
Để tưởng núi cao đâm thấu trời xanh
Thà là mây trôi
Để nhìn dòng sông như tấm gương kỳ diệu.

Xếp đi em
Những con chữ vô tri
Nhưng đựng đầy đau khổ
Xếp đi em
Đừng làm hành trang ngổn ngang nỗi buồn...
                  *PHẠM HỒNG ÂN
            (ESCONDIDO, 02/07/2011)


Mặt nạ


Mặt nạ
Xa lạ
Chụp vào bóng hồng nhan
Giấu dòng lệ sát thủ.


Mặt nạ
Sáu mươi năm hù dọa
Quằn quện như  khối nước đen
Ðổ ầm ầm trái tim trắng bệch.


Mặt nạ
Che kín dòng lệ gươm đao
Nức nở cứa vào thời gian
Những vết cắt lịch sử.


Mặt nạ
Nhăn nhúm như bộ vú người đàn bà tắt kinh
Nằm phơi thân chờ gã đàn ông hành lạc.


Mặt nạ
Kè kè bên em và anh
Trong nỗi sống gần như nỗi chết . . .  


 (Escondido, 07/08/2011)

PHẠM HỒNG ÂN