Tuesday, February 28, 2012

.LỤC BÁT TÌNH






LỤC BÁT TÌNH MỘT



I. Em từ tiền kiếp về đây

Bắn ta một mũi tên ngay huyệt tình

Dù ôm thương tích vô hình

Ngẩn ngơ suốt cuộc hành trình trăm năm.

II.Phải chăng, em, ngọn dao gâm ?

Ðâm ta những nhát vô tâm trong đời

Phải chăng, em, độc-dược--người ?

Lặng câm giết chết một thời hoa niên

Phải chăng, sóng bủa quanh thuyền ?

Bâng khuâng con nước bến riêng em về.

III.Từ ta sông hẹn núi thề

Súng gươm vứt bỏ bên lề thế nhân

Còn đây nguyên trái tim tàng

Theo em sưởi chút tro tàn quê hương

Mười phương chợt nhớ một phương

Cám ơn em vẫn chung đường với ta.





LỤC BÁT TÌNH HAI



Ví dầu ván đóng thuyền thô

Ðưa em lắt lẻo hư vô mấy bờ ?

Anh, tên chèo lái khù khờ

Sang sông với nỗi ngu ngơ đầu đời

Thì thôi sóng bạt, thuyền trôi...

Trái tim đã nặng một trời bão giông

Ðôi ta thảo muội bềnh bồng

Thiên thu sóng cuộn trên dòng sông thơ.





LỤC BÁT TÌNH BA



I. Ðêm ta ngậm bóng trăng người

Buồn le lói cháy một đời hư hao

Bây giờ một nửa trăng đau

Bên kia một nửa chia sầu tối tăm

Ðêm hun hút chỗ ta nằm

Người đi vỡ nát cõi rằm, trăng xưa.

II.Ta trôi trên ngọn sóng thưa

Hào quang là giọt trăng vừa rơi quanh

Ðêm Cali nhớ Sài Thành

Rượu Sài Thành nhớ bài hành phương xa

Hành phương xa nhớ trăng tà

Ơi, thân viễn xứ còn ta nhớ người

Xin nhau một chút môi cười

Ðể đưa vui giữa cuộc đời lao đao.





LỤC BÁT TÌNH BỐN



Sáng nay em mặc áo dài

Bên kia màu pháo, bên này màu hoa

Màu trời lẫn với màu da

Chia nhau một chút kiêu sa đầu ngày.

Sáng nay anh bỗng say say

Thì ra... Xuân đã về ngay tim mình.





LỤC BÁT TÌNH NĂM



Hạ

Em,

Nắng cháy lưng đèo.

Thu

Ta,

Gió lũ

Mưa reo phương người.

Ðông

Như những hạt tuyết trơi.

Sầu

Muơn năm vẫn rụng rơi bên này.





LỤC BÁT TÌNH SÁU



1. Sông. Ðêm. Xuồng. Nước khua dầm.

Trăng lên. Bãi cạn. Rượu cầm bạn xa.

Tiếng đàn kìm. Buốt tim ta.

Sáu câu vọng cổ la đà. Phù hư.

Em. Trong chén rượu. Ngục tù.

Ðáy kim cổ vẫn mịt mù sắc, không.

2. Trăng. Sông. Rượu. Nước phiêu bồng.

Hồn thơ Lý Bạch ngược dòng ra khơi.

Văn chương. Thế sự. Rối bời.

Cạn ly tuế nguyệt. Giận thời phù sinh.

Bạn. Ta. Lãng Ðãng. Khối tình.

Vuốt râu. Hào sảng. Cười khinh bạc đời.





LỤC BÁT TÌNH BẢY



Một dòng thơ

Nhớ

Dòng thơ.

Một bờ này

Nhớ

Một bờ kia sông.

Một phương chờ

Nhớ

Phương mong.

Một con bướm

Nhớ

Ðóa bông vô thường.

Một tù binh

Nhớ

Chiến trường.

Một chương lục bát

Nhớ

tường vi, xưa.





LỤC BÁT TÌNH TÁM



I. Bên này

Ngày

Rớt

Xuống ta.

Bạc

Như sợi tóc

Hơm qua

Ngỡ ngàng.

Ngày ơi,

Cứ rớt nhẹ nhàng.

Trên vai ta

Sẳn số phần

Riêng tư.



II.Trái tim

đầy ắp ngôn từ

Còn nguyên ẩn dụ kinh thư ban đầu.

Cắn vành môi

Bật thơ trào

Muốn nghe từng giọt ly tao

Tỏ tình.

Thì thôi...

Ðây bóng!

Ðó hình!

Dẫn nhau

Ði suốt phù sinh,

Hồng trần.





LỤC BÁT TÌNH CHÍN



Em vềkhua tiếng guốc đêm. Dẫm trong ta triệu dấu êm tình đầu. Chao ơi, đôi gót hồngđào. Nghiêng nghiêng năm ngón đi vào tim ta.



Ðất nằm nhớ bước chân qua. Nhớ con bướm lượn mù lòa đường bay. Nhớ sao, áo lụa trang đài. Thơm hương mật cúc, vườn ai, đầu mùa.



Buồn ta thành hạt mưa trưa. Rơi trên phố cóem vừa đi qua. Hạt nào thay nỗi lòng ta. Long lanh từng trận mưa già tương tư.



Ðưa nhau đi giữa sương mù. Bờ hư vô vẫn mịt mù dưới kia. Ðưa nhau đi giữa đêm khuya. Vòng quay nguyệt đạo chưa lìa cổ kim. Cám ơn em, cũng trái tim. Trăm năm hai đứa đã tìm kiếm nhau.





LỤC BÁT TÌNH MƯỜI



1.Chiếu hoa trải giữa vườn cây

Mời em cốc rượu tràn đầy lòng ta

Ba mươi năm mảnh trăng già

Rớt trong đáy cốc sáng lòa thinh không

Ngồi đây cỏ nội hương đồng

Lêu bêu ta uống một dòng cổ kim

Ừ em, bảy nổi ba chìm

Cám ơn khí phách con tim ban đầu.

2.Ngồi đây vốc cạn dăm bầu

Giọt mưa rơi nhớ đêm thâu trở mình

Dấu giày nhớ bãi cát in

Biển mênh mơng nhớ dáng hình tàu xưa

Trăm năm nhớ phút tiễn đưa

Nhớ em về dưới cơn mưa rã rời

Mới đây, mấy chục năm rồi...

Cám ơn em vẫn một đời yêu ta.





LỤC BÁT TÌNH MƯỜI MỘT



Mừng con - hôn lễ - kiêu sang

Sơn hào, hải vị - đèn vàng,đỏ, xanh...

Hoa đua nhau nở khoe cành

Rượu trào bên phím âm thanh gọi mời

Cô dâu chú rể trọn đời

Bước trên đất Mỹ tuyệt vời văn minh

Mừng con - chợt nghĩ đến mình

Ba mươi năm trước chiến chinh liên hồi

Ba, tên lính trận rách tơi

Mẹ con, thiếu nữ mồ côi cơhàn

Cưới nhau trong tiếng súng vang

Rước dâu đi giữa hai hàng lính reo

Dăm chai rượu đế...lèo tèo

Bày ra một bữa tiệc nghèo trên sông

Ba mươi năm trĩu trong lòng

Vui sao, nước mắt rơi vòng quanh tim?

*PHẠM HỒNG ÂN




Friday, February 10, 2012

.CÔ GÁI XUÂN TRÊN HÒN CON RÙA.



*Truyện Ngn: PHM HỒNG ÂN



Tôi về Phú Quốc còn chân ướt chân ráo, chưa tìm được nơi ẩn trú yên thân, thìđã gặp Chu văn Hùng vác ba lô tới trình diện. Mẹ, cái thằng công tử vườn – ăn chưa no, lo chưa tới – lúc nào cũng lót tót theo sau tôi, như bóng với hình. Từ quân trường Quang Trung đổ mồ hôi sôi nước mắt, tới tận Năm Căn khỉ ho cò gáy, rồi bây giờ...cũng gặp lại nhau – nơi hòn đảo trùng khơi chơi vơi chới với này. Thậm chí, khi học Anh Văn để qua Mỹ thụ huấn, tôi cứ tà tà cho đến khóa cuối mới đi. Rồi khóa cuối, cũng không thoát khỏi hắn. Hai đứa cùng ở chung phòng, cùng đếm lá mùa thu rơi tan tác trong quân trường Newport, tiểu bang Rhode Island.

- Mẹ, cũng gặp mày. Hai đứa chắc nợ nần với nhau từ kiếp trước?

Chuvăn Hùng trố mắt, nhìn tôi. Nụ cười bỗng nở ra, cùng cái lưng cong cong, quằn xuống. Hắn xốc ba lô lên tay, mũi giày hất tung cát bụi mịt mù.

- Mày về đây hồi nào? Xuống tàu chưa?

Tôi chỉ ra cầu tàu. Những chiếc PCF nối đuôi nhau, phập phều ngoài đó. Biển An Thới, buổi chiều, đẹp nhưmột bức tranh thủy mạc. Sóng vỗ lên bờ nhè nhẹ. Sóng trườn qua cát, liếm quanh chân các ghềnh đá trơ vơ.

Tôi dẫn Chu văn Hùng qua phòng nội vụ. Cát vàng tràn lên sân hải đội. Chiều chạy dài ra khơi. Ánh nắng sáng lên ngoài kia, nơi quần tụ những ngọn hòn, lấp lánh tới tận chân trời. Phòng nội vụ khóa cửa. Sĩ quan và nhân viên chơi thể thao trên bãi. Trái banh chuyền tay nhau, lăn tung tóe trên nước xanh.

Tôi đưa Chu văn Hùng ra cầu tàu. Cờ phất phới trên lưng PCF. Cờ bay, ba sọc đỏ thẳm tung tăng như sóng gợn. Cờ chào chúng tôi. Ðón chúng tôi vừa tân đáo đơn vị. Chuvăn Hùng đứng lại, vuốt ve tấm thân phong sương của PCF.

- Mẹ, coi mày nhỏ con, nhưng chưa chắc thua ai?

Tôi đứng đầu cầu tàu. Ngó mông lung ra trùng khơi. Hoàng hôn bắt đầu. Mặt trời chìm xuống biển, chỉ còn rực lên một màu đỏ rịm chói chang.

- Hùng ơi, đất nước mình hùng vĩ quá! Mày xem, đại dương bao la thế kia! Vậy mà, hòn này tiếp nối hòn kia...dàyđặc khắp vùng.

Hùng phì cười. Cái lưng lại cong cong, quằn xuống như thân đòn gánh của mấy em bán chè.

- Ðất nước có lắm hòn – tất nhiên. Vì, chỉmỗi mình mày, cũng đã có hai hòn rồi...

Tôi đấm vào vai hắn thùm thụp. Tiếng cười đuổi theo bước chân. Cứ thế, chúng đua với nhau, khuất dần trong bóng đen của căn cứ.

Chuvăn Hùng với tôi chưa vui với An Thới trọn vẹn, thì lệnh công tác ban xuống, chia chúng tôi mỗi đứa mỗi nơi. Hùng về Rạch Giá, tôi qua Hà Tiên. Ngày khởi hành đi Hà Tiên là chiều ba mươi tết. Ba mươi tết, người ta chuẩn bị giao thừa, xum hợp gia đình. Ba mươi tết, tôi ra vùng công tác, đón giao thừa trên biển, nghe thành phố náo nức trong kia bằng những mường tượng lạc loài.

Tôi đang phom phom rẽ sóng. Bỗng, mũi tàu cất cao, vận tốc chậm dần. Tôi nhíu mày, khó hiểu. Mũi cất cao, có nghĩa là tàu đang tiến nhanh. Cớ sao, thực tế, vận tốc lại chậm dần? Tôi cố dùng sức mạnh, đẩy cần sốtrọn vẹn về chữ Full. Nhưng, con tàu vẫn chậm dần, mũi vươn lên, dường như muốn thẳng đứng với mặt biển. Tôi hoảng hốt nhìn các đồng hồ. Tất cả kim đồng hồ đều quay ngược trở lại, chạy về số không, rồi...bất động. Tôi bấm còi báo động. Thủy thủ chạy rầm rập, xôn xao khắp nơi.

Tiếng trung sĩ cơ khí rú lên, kinh hãi :

- Hầm máy ngập nước. Máy bơm không hoạtđộng. Tàu bất khiển dụng trăm phần trăm.

Tôi bỏ tay lái, vòng ra phía sau. Gần nửa thân tàu chìm dưới mặt nước. Nước khỏa trên boong, róc rách nơi các khe cửa an toàn. Nước bắt đầu tuôn xuống khoang giữa, lôi các đồ vật trôi lềnh bềnh. Tôi nghĩ loanh quanh. Máy tàu bất khiển dụng. Máy bơm bất khiển dụng. Tàu chỉ còn là một khối sắt bất động, chờ chìm sâu dưới lòng đại dương. Tôi hổn hển lăn bừa vào phòng lái, chụp vội ống điện đàm.

- A lô, Ðại Thụ. Tàu tôi vô nước, sắp chìm. Báo cáo, nhiệm sở đào thoát.

Ðại Thụ hét trong máy. Hình như, chưa bao giờ Ðại Thụ gặp trường hợp PCF vô nước, sắp chìm.

- Hả? Cái quái gì vậy? Tại sao vô nước? Tại sao sắp chìm?

- A lô. Tôi không còn thì giờ để giải thích dông dài. Báo cáo, nhiệm sở đào thoát đấy!

- Ư, được rồi. Tôi sẽ gọi thằng Hải Ngư đến cấp cứu. Ừ, muốn đào thoát...thì...thì cứ đào thoát...

Hải Ngư là thằng Chu văn Hùng. Nó về Rạch Giá nghêu ngao mấy hôm nay. Chờ nó qua cấp cứu, chắc cả bọn chui vào bụng cá mập mất!

Tôi phóng ra mũi tàu, mòn mỏi ngóng ra phía trước. Ðại dương mênh mông, vô tận. Nắng đổ hào quang xuống nước, điệp điệp trùng trùng. Thinh không vắng lặng xung quanh. Vắng lặng đến vô cùng. Chỉ có hòn Nghệ ngạo nghễ sát bên, là còn mang hơi hướm của sinh khí, bởi những chòm cây xanh um lay động trên cao. Lát đây, Chuvăn Hùng tới, để còn nhìn thấy những chiếc phao cấp cứu trôi nổi, với đám thủy thủ loi ngoi trên đó. Còn tôi, theo Hải Qui, cấp chỉ huy sẽ chết theo tàu, từ từ xuôi tay chìm xuống lòng đại dương sâu thẳm chăng? Hay cũng hèn nhát tranh sống, bám víu vào chiếc phao tử sinh, thống thiết kêu gào, khẩn cầu Thượng Ðế?

- Báo cáo Trung Úy, tàu không vô nước nữa. Chúng ta chỉ cần máy bơm, bơm nước ra ngoài.

Tiếng trung sĩcơ khí vang lên, khiến cả nhóm thủy thủ rộ lên, mừng rỡ. Tôi run lên vì xúc động, niềm vui bất chợt làm cảm giác căng lên, rộn rã như sợi dây đàn. Một câu hỏi lóe lên trong đầu. Máy bất khiển dụng, nước không vô tàu? Phải chăng máy đang khiển dụng, nước tràn vô tàu?

Tôi kéo trung sĩ cơ khí vào phòng lái.

- Này, tôi nghi ngờ cái bơm lườn có vấnđề. Khi tàu chạy, động cơ hút nước biển vào làm nguội máy. Và sau khi chu du trong máy, nuớc đó được tống ra bên ngoài bởi bơm lườn, phải không?

- Ðúng. Bơm lườn có vấn đề. Thay vì tống nước ra ngoài, nó lại để nước tuôn xuống hầm máy. Nhưng may mắn thay! khi hầm máy chìm ngập trong nước, động cơ bị “mát”, máy ngưng hoạt động. Thế là, nước không tuôn xuống hầm nữa. Tàu vẫn an toàn...

Tôi ôm trung sĩcơ khí vào lòng, mừng rỡ đến độ nước mắt tuôn ra đầm đìa. Các thủy thủ cũng ôm nhau, hát vang lên giữa biển cả mênh mông.

- Báo cáo trung úy, tất cả máy bơm đều bất khiển dụng. Chúng đã chìm ngập trong nước.

Tôi nhảy vào phòng lái, thét vào ống điện đàm :

- A lô, Ðại Thụ. Tàu vẫn nguyên vẹn. Nhưng, nước đầy hầm. Cần máy bơm gấp. Xin cho Hải Ngư đến tôi, nhanh.

Ðại Thụ gầm gừ trong máy. Tiếng rống oang oang như tiếng hổ sắp vồ mồi :

- Hử? Cái quái gì vậy? Mới đây, tàu sắp chìm. Bây giờ, tàu lại nguyên vẹn? Ðịnh giỡn mặt với tử thần hay sao?

- Ðại ca thông cảm! Tôi sẽ trình bày điều này rõ ràng hơn. Bây giờ, xin cho Hải Ngư cấp tốc mang máy bơm đến tôi!

- Cậu là người lắm chuyện nhất ở đây đấy! OK, tôi sẽ cho Hải Ngư đến cậu gấp!

Tôi buông ốngđiện đàm, lượn một vòng quanh boong tàu. Chiếc tàu, giờ đây, nhưkhối kim loại vô dụng, nằm thảm thương trên mặt biển. Ôi, còn đâu nét oai hùng, vẻ kiêu hãnh của thời oanh liệt! Tôi chạnh nghĩ đến thân phận mình. Khi sa cơ thất thế, liệu có còn giữ được khí tiết hay không?

- Trung úy ơi! Có chiếc ghe hoặc chiếc tàu từ quần đảo Bà Lụa phóng ra. Nó đang full nhanh về đây.

- Chắc thằng Hải Ngư chứ ai? Nó “chém vè”ở Hòn Heo, để đón giao thừa đêm nay với bà chúa hòn?

Tôi đưa ống dòm lên cao, nhìn ra hướng bắc. Không phải Hải Ngư. Không phải PCF. Ðó là chiếc ghe đánh cá bản xứ, đang rẽ sóng lướt nhanh về hướng chúng tôi.

- Nhiệm sở tác chiến! Nhanh lên! Nhiệm sởtác chiến!

Tôi dõng dạc hô to. Thúc giục thủy thủ chạy về các ổ súng. Tôi phải cảnh giác. Chiếc PCF bây giờ biến thành một tiền đồn giữa chiến tuyến mênh mông. Việt cộng sẽ lợi dụng hoàn cảnh này, tấn công một cách bất ngờ. Và lúc đó, chúng tôi chỉ có nước một sống một chết với kẻthù. Bởi giữa biển cả mịt mùng, lúc này, tất cả lối thoát đều là tử lộ.

Chiếc ghe hiện ra, rõ dần. Ðó là chiếc ghe đánh cá bình thường, phía đuôi còn lõng thõng bộ lưới cào chưa ráo nước biển. Lão ngư phủ cởi trần, chiếc khăn rằn quấn quanh trán, để lộ chòm tóc bạc phếu phất phơ trước gió. Lão đứng hùng dũng trước mũi ghe, đưa hai cánh tay lên cao, làm dấu hiệu thân thiện :

- Chúng tôi là ngư dân ở hòn Bà Ðầm. Thấy tàu các ông lâm nạn, chạy đến tiếp cứu.

Thế rồi, họtự động phóng qua PCF. Với các máy bơm, thùng, gàu...lĩnh kĩnh. Họchui xuống hầm máy, thòng dây, chuyền tay nhau, tát nước ra ngoài. Thủy thủ và ngư dân cật lực, cứu nguy con tàu. Chẳng bao lâu, chiếc PCF nổi phều trên mặt nước. Nó thẹn thùng lắc lư theo sóng, như thầm cám ơn các ngư dân đã tận tụy hồi sinh nó.

Lúc này, tôi mới chú ý đến một cô gái tóc dài đang lúi húi thu xếp các cuộn dây, từ chiếc máy bơm Yamaha. Tội nghiệp, sau những giờ phút quần thảo với nước, cô gái có vẻ mệt mỏi, kéo lê bước chân một cách nặng nề. Tôi rút chiếc áo khoác vắt trên phòng lái, chạy đến cô gái.

- Mặc đi! Lạnh đấy!

Mái tóc vắt ngang bờ vai. Khuôn mặt ngước lên, lạnh lùng. Tôi thấy đôi chân mày lá liễu cong vút, tựa hai mảnh trăng lưỡi liềm treo ngược. Cũng có thể, chúng như hai dấu hỏi, hay hai dấu chấm than ngộ ngĩnh, nằm kiêu sa trên vầng trán bướng bỉnh.

- Cám ơn. Tôi không lạnh.

Cô gái quay lưng, đi một hơi về chiếc ghe. Tôi cầm chiếc áo, hụt hẩng. Dường như,mùi hương kỳ lạ nào đó, đang thoang thoảng bay trong gió chiều.

- Xong rồi, trung úy. Tàu đã cạn nước. Chúng tôi “dọt” nghen!

Lão ngư phủ đưa tay chào theo kiểu nhà binh. Tôi nắm chặc đôi vai lão, lắc lắc :

- Cám ơn. Cám ơn chú nhiều lắm! Hôm nào ghé Hà Tiên. Chú cháu mình nhậu một bữa.

Chiếc ghe quẫy sóng, rời tàu. Tôi nhìn theo, tìm mái tóc cô gái. Nhưng chỉ thấy bóng dáng của lão ngư phủ lắc lư trên phòng lái. Và những ngụm sóng trào lên, ngùn ngụt, bạc trắng sau đuôi ghe.

Hòn Tre. Một cái tên xa lạ. Tôi chưa hề biết tới. Chỉ loáng thoáng thấy hình dạng nó, nằm khum khum như con rùa, khi đứng ở Rạch Giá ngó về hướng tây. Tôi cũng chưa hề mơ tưởng đến ngày nào đó, đặt chân lên đây, nằm ve vuốt nỗi cô đơn hèn mọn, trong tiếng sóng biển gầm vang suốt đêm,để khép kín đời trai tráng của mình, một cách dại dột. Vậy mà, đêm nay, đêm giao thừa, Hải Ngư “kè” chiếc PCF lâm nạn, về tạm trú nơi cái hòn khỉ chê cò chán này.

Chiếc PCF lâm nạn vừa cột dây an toàn, Hải Ngư vội tách ra, cất đầu về hướng Rạch Giá. Tiếng thằng Chu văn Hùng làn khàn trong máy truyền tin :

- Alfa, mày tạm đón giao thừa đêm nay ở đây. Tau phải về Rừng Gió ngay, theo lệnh Ðại Thụ.

Bỗng dưng, tôi cảm thấy cô đơn, bơ vơ giữa bóng đêm mịt mùng. Như có ai bỏ rơi. Như có ai phụ bạc mình. Ðau khổ, tôi ngó thẳng vào bờ. Trong đó, Tiền Doanh Yểm Trợ đang loang loáng ánh đèn. Với trại lính chật chội, nằm im lìm, vắng ngắt. Ngoài cổng, có vài thủy thủ cầm súng đi qua đi lại, một cách nghiêm trang. Tôi cố lục lọi ký ức, chẳng nhớ thằng bạn nào chuyển về đơn vịnày. Có lẽ, đêm nay, ngồi quấn mền, đốt thuốc triền miên trên boong PCF để đợi sáng.

- Trung úy, có cô nào tìm ông kìa!

Tiếng trung sĩcơ khí oang oang giữa thinh không hoang lạnh. Khiến tôi quay lại, ngó về phía ánh sáng. Bóng đèn vàng chạch trên cầu tàu hắt xuống, chiếu lung linh một bóng dáng thiếu nữ. Mái tóc quen thuộc nào đó vắt ngang bờ vai. Khuôn mặt quen thuộc nào đó, ngước lên.

- Mời các ông lên nhà em. Cùng đón giao thừa với nhau. Cho vui.

Tôi ngạc nhiên, nhìn cô gái từ đầu tới chân. Ðó là một trong những vị ân nhân đã cứu con tàu lâm nạn, chiều nay, trên vùng biển Hà Tiên? Họ là ngư dân ở hòn Bà Ðầm, chính lão ngư phủ giới thiệu như vậy. Sao cô gái này hiện diện nơi đây – nơi cái hòn cực kỳ kỳ cục này?

Chưa kịp tìm ra câu trả lời, các thủy thủ đã xúm lại, đẩy tôi về phía cô gái.

- Trung úy lên bờ đi! kẻo phụ lòng ngườiđẹp!

Cô gái nhưthanh nam châm mảnh mai, hút tôi, bám gót theo sau. Lối mòn trải dài. Xóm làng thấp thoáng phía trước. Những bàn thờ lộ thiên, bày ra, leo lét ánh đèn. Những sợi khói mỏng mảnh bay lên, nơi các đầu que nhangđỏ rực. Pháo bắt đầu nổ vang. Ðua nhau nổ vang. Tiếng nổ gần. Tiếng nổ xa. Tiếng nổ lan ra, từ nhà này sang nhà khác. Từ hòn đông qua hòn tây. Từ biển khơi tới đất liền.

- Lẹ lên trung úy! Chúng ta trễ mất. Giao thừa đã tới rồi.

Tôi với cô gái như chạy, như bay trong bóng đêm huyền hoặc, trong tiếng pháo dồn dập, trong những giây phút thiêng liêng nhất của giờ giao thừa.

*

Có lẽ, em nên bắt đầu từ mũi Nai – một bãi biển tuyệt đẹp của vùng Hà Tiên. Hayđúng hơn, bắt đầu từ hòn Ðốc, nơi có những em bé lễ độ, nơi có những ngư dân mộc mạc, suốt đời gắn bó với biển rộng sông dài.

Em còn nhớbuổi sáng hôm đó, sau khi tốt nghiệp sư phạm, nhà trường tổ chức chuyến du ngoạn đến hòn Ðốc. Hòn Ðốc cách Hà Tiên không xa, nhưng điđường bộ rất hiểm trở và mất an ninh. Nhà trường phải nhờ Hải Quân giúp dùm. PCF đón ở bến, và bắt đầu rẽ sóng đưa chúng em ra vùng non nước hữu tình. Vượt qua hòn Phụ Tử, hòn Một. Tàu nhắm cột ăng-ten ngất ngưởng của đài kiểm báo lướt tới, chẳng bao lâu, hòn Ðốc hiện ra với bãi biển óng ánh cát vàng, với vách đá cheo leo, với những mái nhà bé xíu thấp thoáng bên táng cây xanh. PCF đến bãi hòn Ðốc đúng ngay lúc thủy triều xuống. Tàu phải bỏ neo ngoài xa, chờ xuồng con từ bãi bơi ra, rước chúng em vào.

Em nhớ, khi xuồng tách khỏi PCF, bơi được đoạn khá xa. Thình lình, giông gió nổi lên. Rồi, từ ngoài khơi, sóng giăng hàng ngang tiến thẳng vào bờ.Sóng đập mạnh vào mạn xuồng, lật úp thân xuồng xuống nước. Chúng em bị hất tung lên cao, sau đó, lọt tõm xuống lòng đại dương. Và...chúng em chỉ còn kịp dơ cao hai cánh tay lên, thất thanh kêu cứu.

Tỉnh dậy, em thấy em đang nằm trên cát, trong vòng tay rắn chắc của của vị sĩ quan hải quân. Chàng vừa cúi xuống môi em, khẩn thiết làm động tác hô hấp nhân tạo. Thế là, như có sự an bày của định mệnh, chúng em bắtđầu quen nhau, rồi...yêu nhau một cách tha thiết.

Mái tóc vắt ngang vai, ngồi đó, dưới ánh đèn sáng choang của ngọn néon ba tấc. Cô gái nói huyên thiên. Nói về chuyện hồi sinh, về chuyện tình yêu giữa nàng với chàng sĩ quan hải quân nào đó. Tôi ngó lòng vòng quanh nhà. Mái lá đơn sơ. Vách phên trống trải. Bên cạnh, chiếc bànọp-ẹp là tấm vạt tre, vừa chỗ một người nằm. Có vài hỏa lò đặt phía sau, ngoài mái lá, đang bập bùng lửa hồng. Trên đó, nồi bánh tét vừa sùng sục sôi một cách mãnh liệt.

- Như vậy, quê cô ở hòn Bà Ðầm. Và về đây, dạy học cho các em?

- Vâng, ra trường, em tình nguyện về đây. Ðã gần ba năm...

- Tình nguyện? Ở hòn từ nhỏ tới lớn, cô không chán sao? Trong đất liền, tiện nghi hơn, có nhiều trường – thú vị lắm chứ?

Cô gái ngước lên. Mặt vẫn lạnh lùng. Nhưng trong đôi mắt u ẩn, hình như có một nỗi buồn nào đó.

- Về đây, em muốn gần chàng. Em muốn nhìn thấy tàu chàng, qua lại hòn này...

Tôi nhắp ngụm trà. Trà mới châm, hương lài bốc lên tận mũi. Tôi cố tận hưởng cái cảm giác êm đềm này, bằng cách kéo thêm một hơi thuốc. Rồiđứng lên, đi ra cửa, ngó về phía biển.

- Và cô đã tìm thấy mùa xuân, một mùa xuân trọn vẹn.

- Không. Chỉ một thời gian ngắn, chàng bỏ đi...để lại cho em...

Tôi xoay người lại, tiến đến gần cô gái.

- Ðể lại cái gì?

Khuôn mặt lạnh lùng, ngước lên. Những giọt nước mắt rơi xuống, đầm đìa đôi má.

- Ðể lại...để lại nỗi sầu to lớn...trong em.

Tôi định tiến sát cô gái, đặt bàn tay lên vai nàng, nói đôi câu an ủi cầu may, mong nàng vơi đi chút ít muộn phiền. Nhưng, tiếng chân dồn dập trước cửa, cùng với tiếng nói quen thuộc léo nhéo ngoài sân :

- Trung úy ơi! Xuống tàu gấp! Có PCF đưa ông về An Thới, nhận nhiệm vụ khác.

Chưa kịp đưa tay vẫy chào cô gái, gã trung sĩ cơ khí đã nắm chặc vai tôi, đẩy ra lối mòn.

- PCF cứ hụ còi, gọi trung úy mãi.

Tôi vừa phóng qua bờ đê, vừa lan man nghĩ đến cô gái. Tội nghiệp, thời chiến chinh, mấy ai giữ được cuộc tình trọn vẹn?

*

Mùa xuân năm sau, tôi có dịp trở lại hòn Tre. Hòn Tre vẫn vậy, vẫn giống hình dạng con rùa, nằm khum khum trên mặt biển. Tiền Doanh Yểm Trợ vẫn sáng choang ánh đèn. Những con tàu vẫn nằm lẻ loi theo bến. Lối mòn vẫn trải dài, dẫn tôi đến khoảnh sân chông chênh ngày trước. Nhưng, dường như cô gái không còn ở đây nữa. Mái lá ngày xưa cũng tiêu tan, mất dấu. Nhường chỗ cho cỏ cây mọc lên, u uất, trùng trùng. Tôi bán tín bán nghi, không chắc nơi này là nơi cô gái từng cư ngụ?Tôi đi qua đi lại nhiều lần quanh khoảnh sân, rồi nhìn ra biển, cốxác định lại vị trí.

Gã trung sĩ cơkhí đi sâu vào khoảnh sân, chợt cúi xuống, nhặt lên một đoạn vạt tre.

- Này, nơi đây, năm ngoái, đúng là nhà cô gái ở. Trung úy đến tiền doanh, hỏi thăm chiến hữu mình, xem sao?

Tôi kéo cậu thủy thủ vừa đi qua, hỏi thăm :

- Chỗ này, ngày trước, có phải là nhà cô giáo không?

Tên thủy thủtrố mắt, nhìn tôi :

- Ðúng. Cô ấy tự tử, chết rồi.

- Hả? Anh nói sao? Tại sao tự tử?

- Ông sĩ quan hải quân nào đó phụ tình. Thất vọng, cô ấy uống thuốc ngủ, tự vận. Tội nghiệp, cổ chết đi, với cái bào thai...trong bụng.

Gã trung sĩ cơkhí chợt nhìn tôi đăm đăm. Hình như, có những hoài nghi nào đó, ởtrong giọng nói gã.

- Ðêm giao thừa, năm ngoái, trung úy ở đây...suốt đêm...

Tôi đưa hai tay lên trời, đính chánh :

- Không. Cậu đừng hiểu lầm. Tôi, hoàn toàn trong sạch.

Cậu thủy thủdẫn tôi đến mộ cô gái, lúc tia nắng đầu ngày bắt đầu hực lên, ởmột góc biển. Ngôi mộ nằm trên triền dốc thoai thoải, mặt hướng ra biển, bên cạnh là bóng mát của hàng cây xanh, rì rào trong gió.

- Quê cô giáo ở hòn Bà Ðầm. Tại sao thân nhân không chôn cất ở đó?

Cậu thủy thủ chỉ tay về phía chiếc PCF,đang tuần duyên ngoài khơi :

- Người ta làm mộ nơi đây, theo ước muốn của cô, trong bức thư tuyệt mạng. Cô muốn nằm mãi ở hòn này, chờmột con tàu trở lại...

Tôi thắp cho cô gái nén nhang, chân thành tưởng tiếc một mối tình lãng mạn, đã tiêu tan thành mây khói.

*

- A lô. Hotel đây Alfa. Mày đừng vào sát bờquá! Coi chừng vixi! Bên trong hòn Ðất là mật khu khét tiếng của nóđấy!

- Alfa đây Hotel. Ðêm nay tau phải án ngữ ởvị trí này, theo lệnh Ðại Thụ.

Tôi nhìn vào ra-đa. Hòn Ðất như một bán đảo hiểm trở, đứng sừng sững trong bờ.Thằng Chu văn Hùng gan dạ đã cho tàu bò qua bò lại quanh đầu con rạch, dẫn vào huyệt đạo. Chính nơi này là nơi réo gọi của tử thần, năm trước, PCF 3806 đã bỏ mạng giữa sa trường. Nửađêm, vixi dùng ghe nhỏ, âm thầm tiến sát đến PCF, bất thần đột nhập vào tàu, dùng mã tấu chặt đầu từng thủy thủ. Rồi, chúng đưa PCF vào sâu trong rạch, cướp lấy tất cả.

- Hotel. “Bẻ cổ” đi! Tau có chuyện muốn nói với mày. Mày còn nhớ vụ PCF 3806 không?

- Sao không nhớ? Thằng Lư bị vixi chặt đầu, thả trôi trên biển chứ gì?

- Tau nhắc thế để mày cảnh giác, canh phòng cẩn thận đêm nay.

- Ờ Alfa, tau vừa lục được trong tủ của phòng sĩ quan độc thân một bức thư của thằng Lư. Bức thư, chưa kịp gửiđi...thì nó đã leo lên bàn thờ ngồi...

- Hử? Bức thư nào? Nó viết ra sao?

- Ðể tau đọc mày nghe một đoạn : “...Tội nghiệp em quá! Em đã có thai mà vẫn đến lớp học, mà vẫn một mình tự lo lấy cuộc sống hàng ngày. Ước chi, anh thuyên chuyển về hòn,để suốt ngày cận kề em, săn sóc cho em từng miếng ăn đến giấc ngủ.Kỳ tới, nghỉ phép thường niên, anh sẽ thưa với Ba Má về chuyện chúng mình...”

Tôi đập tay vào đùi một cái thật mạnh, rồi la to vào ống điện đàm :

- Hotel. Tau nghi thằng Lư là bồ cô giáo ởhòn Tre.

- Thằng ngốc, nghi với ngờ? Chính nó là thủphạm...chứ còn ai?

Tôi đặt ốngđiện đàm xuống, nhìn đăm chiêu ra biển. Ngoài xa, hòn Tre nằm khum khum giống hệt con rùa thần. Trên đó, ngôi mộ cô gái bạc phước nằm hướng ra khơi, như chờ đợi, như trông ngóng một bóng hình. Rồi, sẽkhông có con tàu nào trở lại. Sẽ không có sự đoàn tụ trên dương thế. Cuộc tình tuyệt diệu thật! Họ đã thực sự gặp nhau, dưới đó, nơi miền âm cảnh.

*PHẠM HỒNG ÂN

(San Diego, 24/11/2006)


Monday, January 30, 2012

.CHỢ CHỒM HỔM, BUỔI GIAO THỜI.


          *Truyện Ngắn: PHẠM HỒNG ÂN

        Trước đây, chợ chồm hổm chỉ là một khoảnh đất nhỏ xíu trước cửa giáo đường. Nơi cua quẹo của hương lộ mới đấp, còn lục cục đất mới, sình bùn và gốc rạ. Ðầu tiên, con heo nái của mụ tư Nhớt chết dịch. Tiếc của, mụ đành phải xẻo thịt nó, gánh đi bán dạo. Lợi dụng chúa nhật, các con chiên ngoan đạo tấp nập vào ra giáo đường. Mụ cũng lợi dụng nơi cua quẹo của hương lộ mới mở - chỗ giao lưu độc nhất của các ấp. Cái gánh thịt heo bày ra, lớn tiếng mời mọc, mồm mép than vãn - thế là chẳng mấy chốc - cả con heo đã hết sạch.

   Chị ba Lạng Quạng thấy vậy, liền đốn tre che một cái chòi. Buổi sáng, chị bán bánh mì thịt, rau cải, bột ngọt, tiêu, ớt...Buổi trưa, chị cân cá ở Mỹ Tho về bán. Những con cá linh bản, mùa nước đổ, trắng phau và nung núc mỡ. Thiên hạ thấy rẻ lại ngon, nhào vô giành giựt chí chóe. Một tuần lễ sau, có lẽ, người ta nghĩ đây là một cơ ngơi chắc chắn thương mãi được. Họ liền đổ xô ra buôn bán đầy đường, giựt giành từng tấc đất, che kín mítû cổng giáo đường. Ðủ các mặt hàng bày ra. Từ gà vịt đến vải vóc, gạo nếp...Thậm chí có cả kim may, thun luồn quần, dao cạo, đá lửa..v..v...

   Sáng 30 tết, cậu năm Nhậu ở ấp trong sửa soạn một bộ quần áo chỉnh tề đi chợ chồm hổm. Cậu năm vừa đúng tuổi lục tuần, lại thừa tiền dư của, nên rất thích hào hoa phóng đãng. Lúc đầu, nghe tên năm Nhậu, người ta tưởng cậu thuộc giới lưu linh, sáng xỉn chiều say, lai rai không nghỉ. Thực ra, cậu năm Nhậu chưa hề nhắp thử một ngụm bia hơi, chớ đừng nói chi đến rượu đế. Cậu chúa ghét những ai say sưa lảm nhảm, những ai mượn rượu làm nư - quậy, quầng...đủ kiểu. Cậu năm Nhậu không nhậu rượu, nhưng cậu nhậu cái khác. Cậu nhậu đàn bà góa, nhậu con gái lỡ thời. Quá khứ của cậu là một quá khứ sôi nổi, đầy tình ái lẩm cẩm. Vì sôi nổi, cậu đã đoạn tuyệt và cách ly con vợ già từ lâu. Một mình ra cất cái "chuồng cu" bên đường, sống trọn vẹn với những khát khao điên cuồng.. Cái "chuồng cu" thực ra chỉ là một cái chòi có gác. Trên gác, cậu bày biện như một phòng ngủ dã chiến, có rèm che, có nệm trắng và đôi gối thêu hình loan phượng.. Nơi đó, cậu đã "già nhân ngãi, non vợ chồng" với những đứa con gái lỡ thời, sau khi nhét vào tay họ những citizen, cà rá, tiền bạc...

   Cậu năm Nhậu còn có biệt tài tự may lấy quần áo để mặc. Cậu thường chê các tiệm may bây giờ không hợp thời trang, chưa đúng "mốt", chỉ cóp đi cóp lại những kiểu cổ, lỗi thời. Cậu phải đứng ra may lấy cho hợp "gu", kể cả việc vẻ kiểu, cắt, thêu rô đê và vắt sổ.. Quần áo cậu may có hình thức rất kỳ quặc. Cậu thêu rô đê và viền chim cò đủ màu trên khắp các bâu áo, nắp túi, nẹp dọc, nẹp ngang...lung tung - y như trang phục của các cô bóng lên đồng. Ðặc biệt, mỗi bên nách áo, cậu đều khoét một lỗ tròn thêu đỏ thêu xanh. Theo cậu, đó là lỗ chống nực, dùng vào mùa hè, để không khí bên ngoài thông vào, điều hòa cơ thể.

   Gần tết, cậu năm Nhậu nghe đồn chợ chồm hổm bỗng dưng "sung" mấy ngày nay. Nhất là đám buôn bán, đa số toàn đàn bà con gái. Sáng này, sẵn cái áo mới may hôm qua, đêm rồi cậu đã thức tới khuya để kết lông trừu trên bâu áo, và thêu hai con chim cu trên miệng túi áo. Hai con chim cu, cậu để cho nó quay mỏ vào nhau, như có vẻ mớm mồi cho nhau, như có vẻ hôn hít lẫn nhau, chứng tỏ nó đang nuôi dưỡng với nhau một thứ tình riêng của loài vật. Cái áo mới này thuộc áo chống lạnh, dùng cho mùa đông sắp tới. Với lại, nhà vừa hết cám, không tranh thủ kịp, bầy heo nái lũ khũ của cậu sẽ biểu tình, sẽ la hét ầm ĩ, không ai chịu nổi.

   Cậu năm vừa đến đầu chợ chồm hổm thì gặp Tám thuốc tây đang ngồi chồm hổm trước gánh bánh canh cua đồng. Hắn vừa thổi phù phù, vừa húp lia lịa. Cậu năm đưa bàn tay lên, chào một cách lịch sự, rồi chống nạnh ngó gian hàng thuốc tây của anh Tám. Nói gian hàng cho nó "xôm", thực ra đó chỉ là một tấm nylon, trải tạm xuống đất, phía trên bày những lọ thuốc tây nội-ngoại đủ thứ. Thấy cậu năm, Anh Tám lật đật trở về chỗ ngồi của mình, quảng cáo một hơi :

   - Nhức đầu, sổ mũi, liệt dương, điều hòa kinh nguyệt..vừa rẻ vừa hay. Dạ, cậu cần chi?

   - Có thuốc dưỡng heo không?

   Tám thuốc tây hất tai lên, cho sát vào cậu năm một chút, nheo mắt hỏi :

   - Dưỡng thai hay dưỡng...gì cậu?

   - Dưỡng heo chứ dưỡng thai mần chi? Thời buổi này ai mà dưỡng thai, xưa quá rồi.

   - Dạ, cậu dặn thì lần sau tôi lấy cho. Dạ, ba bốn ngày sau cậu đến, được không cậu?

   Cậu năm gật đầu, rồi ngó tới ngó lui khu chợ chồm hổm. Từ trên xuống dưới - đều trân. Ai ai cũng có tấm nylon trải tạm xuống đất. Hàng hóa lĩnh kĩnh phía trên, tàm tạm - coi cũng đẹp mắt. Cậu năm chợt mỉm cười với ý nghĩ của cậu. Ðúng là chợ chồm hổm. Người bán cũng chồm hổm bán. Người mua cũng chồm hổm mua. Trông tiếu lâm hết sức. Cậu liếc mắt ngó mụ Tư Nhớt. Mụ gầy như một que tăm, gió bay hổng chừng dám ngã. Tuy vậy, mụ cũng có chút nhan sắc đó chớ ! Cái đống thịt heo to tướng, bầy nhầy những mỡ - so với tấm thân " liễu yếu" của mụ tư, sao nó tương phản nhau một cách kỳ cục. Cậu năm Nhậu thầm trách mụ tư chọn nghề thịt heo chi cho mệt, phải thời về cái "chuồng cu" của cậu hợp tác nuôi heo nái, tối lửa tắt đèn có nhau, thiệt sướng biết bao! Cậu năm chậc chậc lưỡi, như tiếc tiếc một điều gì. Một điều gì thật gần lắm mà cũng thật xa lắm. Ví như cái áo mới của cậu năm chưa thêu rô-đê, chưa viền ren mỏõng, chưa khoét lỗ nách. Ví như hai con chim cu của cậu năm chưa quay mỏ vào nhau, chưa cảm thông được nỗi niềm riêng đơn độc.

   Tám thuốc tây vừa húp xong tô bánh canh cua đồng, vội đưa tay quẹt mép, rồi chửi thề vài cái :

   - Ðù má, sáng giờ ngồi đồng. Lại thêm gặp cái thằng cha năm Nhậu, sùng ghê!

    Trúc Sơn ngồi bên bán họng đèn, tim đèn, kim chỉ vá may...liền cười khì khì; sau khi vấn một điếu Xuân Lộc, nhẹ nhõm phà lên không trung những vòng khói chữ o trắng đục. Trúc Sơn là một thiếu niên vừa trưởng thành, đờn ca có hạng. Ngón đờn vọng cổ của y mùi tận mạng. Nhiều cô lỡ thời phải đứt ruột, cúi mặt khóc thầm, trách cho tình duyên của mình sao quá não nuột như tiếng đàn thê thảm đó. Nhờ biệt tài này, ai ai cũng biết danh, nên Trúc Sơn bán đắt khách hơn mọi người. Lợi dụng ưu điểm đấy, Trúc Sơn mặc tình "chặt" đẹp, mặc tình thao túng chợ chồm hổm. Y đã từng lếu láo với khách hàng :

   - Ở đây Trúc Sơn bán : tình nghĩa là "chín" (y nhấn mạnh chữ "chín"), nhưng tiền bạc sẽ là mười.

   Bộ quần áo mới đón xuân của cậu năm Nhậu làm chợ chồm hổm chợt nhốn nháo hẳn lên. Người ta đều đồng loạt lõ mắt ngó cậu năm một cách kỳ cục. Mấy mụ đàn bà thì lớn tiếng bàn tán, khen che đủ cỡ. Mấy đứa con gái cúi mặt xầm xì, má đỏ au như mận chín. Cậu năm đi đến đâu, mọi người đều mời mọc đến đấy. Cậu chỉ xã giao bằng cách dơ tay chào, miệng cười tỏn tẻn. Ði giáp chợ, cậu vẫn chưa tìm ra chỗ bán cám heo ăn. Quái lạ, mặt hàng này phổ biến phổ thông, vậy mà chưa có người nào biết để kinh doanh? Không lẽ, cậu năm lại ra cái "gian hàng" bán cám. Không lẽ, cậu năm ra chồm hổm với những mụ lỡ thời, để cho bầy heo nái của cậu buổi sáng đói meo, thét la inh ỏi. Cậu năm rề lại mụ tư Nhớt đang cầm miếng mỡ heo láng lẩy khứa ngang.

Cái nụ cười tủm tỉm của mụ tư sao nó giống nụ cười cố nhân của cậu năm quá đỗi. Chỉ khác một điều, nụ cười mụ tư hơi móm một chút, hàm răng mụ tư hơi bợn vàng một chút, và có những cái răng sâu đen xì nằm cùn mằn một cách hơi vô duyên trên hàm của mụ. Thây kệ, mụ tư vẫn là mộng tưởng đang thực hiện của cậu. Nó làm cậu khát khao, bức rức cả tháng nay, không đêm nào cậu dỗ giấc ngủ cho được.

   - Chị tư này, sao chị không mua cám về bán? Lúc này người ta nuôi heo ghê lắm! Tha hồ lụm bạc.

   - Ðể tôi nói với con Dìa ngày mai ra bán anh ạ! Cha, hôm nay anh diện quần áo bảnh quá ta!

   - Tôi may lấy chị ạ! Mấy cha thợ may bây giờ dở quá, không biết mốt mung gì cả.Áo này là áo mùa đông, mặc ấm. Coi vậy chớ gió bấc thổi về cũng lạnh lẽo lắm!

   - Anh lúc nào cũng lạnh lẽo, bộ hồi xuân chắc?

    Cậu năm đỏ mặt ấp úng. Cậu giật mình với chữ "hồi xuân" của mụ tư Nhớt. Phải rồi. Ai không tránh khỏi giai đoạn hồi xuân của cuộc đời. Cậu cóc sợ. Cậu hồi xuân chớ có ăn cắp ăn trộm người ta mà mắc cỡ. Tình yêu nào cũng có một thời của nó. Thời cậu cũng vậy, tình yêu phải đến, đúng ngay cái tuổi sắp lụm khụm này.

    Cậu năm nghĩ thế, nhưng trong bụng cũng thầm thèn thẹn, nên cậu mua bừa một ký thịt của mụ tư Nhớt, rồi ngoe ngoảy bỏ đi một nước. Mụ tư liếc theo cậu, miệng cười tủm tỉm. Cậu năm bước vội về nhà, để lại đằng sau những tiếng mời mọc vang rân của những mụ buôn bán. Tuy vậy, cậu không thể nào quên cái liếc mắt đưa tình và nụ cười sôi bỏng của mụ tư. Nó như một khối đá, một bầu tâm sự, nặng ấm ách trong lòng.

    Năm mới, chợ chồm hổm lại có thêm những tay kinh doanh "cỡ nhỏ", như: con Dìa bán cám, chị Thẻo bán vải ...v...v...Cậu năm Nhậu vẫn mỗi ngày mỗi kiểu áo mới, mặc ra chợ chồm hổm mua cám đều đều. Con Dìa - con gái mụ tư Nhớt, bán cám đắt như tôm tươi, mặc dầu cám của nó đắng nghét và lờ lợ như mạt cưa. Ðồng thời, thịt heo của mụ tư Nhớt, mỗi ngày, cậu năm đều mua dùm vài ký xã giao, nhen nhúm cho một cuộc tình. Thời gian này, để cho việc buôn bán được trôi chảy, mụ tư cũng hồng hồng đôi má, giả bộ làm lơ cho cậu năm cầm nhầm tay, thay vì cầm vào gói thịt. Trúc Sơn cũng được dịp bán xà bông thơm lia lịa. Cậu năm muốn thân thể và quần áo mới của cậu luôn được thơm tho, sạch sẽ - nên đã hào phóng mua cả mấy chục cục xà bông một lúc. Chị ba Lạng Quạng cũng có cơ hội bán dầu thơm, thứ dầu thơm ba số năm Chợ Lớn, nó vừa rẻ vừa có mùi y hệt như Tabu hồi trước. Mụ tư Nhớt quanh năm với mùi thịt heo thum thủm, với mùi hôi nách nồng nặc như mùi hành lá, cũng cần có chú thơm khử đi, khi cậu năm đến thỏ thẻ đôi điều. Con Dìa giống mẹ. Mẹ sao con vậy. Cũng tập xức dầu thơm, lẳng lơ đôi chút với khách hàng.

   Từ lúc bán vải, chị Thẻo chả bán được thước vải nào thuộc loại đắt tiền. Ba bộ đồ Si đã chị mua rẻ ở Chợ Lớn, về chịu khó ngâm xà bông cho sạch lại, rồi lấy bàn ủi là qua cho thẳng nếp, xong đem ra chợ chồm hổm quảng cáo đồ mới giá bình dân, thiên hạ tin như điếu đổ. Con Dìa mua bộ "xoa" có viền kim tuyến và cái xì líp màu hường. Mụ tư Nhớt mua áo ka tê sọc đỏ. Trúc Sơn mua quần "din". Chị ba Lạng Quạng mua nịt vú. Cậu năm Nhậu mua vải canada....Chị Thẻo tha hồ đếm tiền, tha hồ đẩy đưa, ngọt lịm như kẹo dừa Bến Tre. Chỉ có Tám Thuốc Tây không thèm mua của chị. Chị tưn tức trong bụng, bữa chợ nào cũng liếc mắt sang Tám Thuốc Tây. Cái thằng cha này thiệt thấy ghét, mà...sao cũng thấy thương...thương.

   Tám thuốc tây càng lúc cũng càng tiêu thụ được thuốc. Cậu năm Nhậu đăng ký thuốc bổ heo đều đặn. Mụ tư Nhớt gánh thịt trặc vai, mua thuốc dưỡng gân. Chị ba Lạng Quạng dầm mưa đón đò lấy bánh mì, trúng nước ớn lạnh, mua thuốc cảm mạo. Con Dìa hành kinh thất thường, mua điều hòa kinh nguyệt. Trúc Sơn đái nhiều ban đêm, mua thuốc trị suy thận. Chị Thẻo nổi lông ben, mua bánh xe lãng tử. Nhưng lúc đó, Tám Thuốc Tây vênh vênh cái mặt, ra vẻ đắc chí: " Thấy chưa, tụi bây cũng phải cần đến tao"...

    Chợ chồm hổm diễn tiến được vài tháng, thì một hôm có vài chuyện chợt xảy ra. Con Dìa càng ngày cái bụng càng bự như trống chầu. Nó đã lỡ ăn ở với ai, chẳng ai biết được? Có người nghi cho những tên đực rựa ở chợ chồm hổm như: Trúc Sơn, Tám Thuốc Tây...Có người đã nghi cho cậu năm Nhậu, đêm hôm tối om, lộn mối tơ lòng...thòng.Con Dìa mang thai, mấy mụ tới lui chợ chồm hổm liền gợi ý: phải ra "gian hàng" bán than. Ðây là "gian hàng" cần thiết cho thai phụ, nhất là ở chỗ xa phố cách phường này.

   Chuyện thứ hai: chị Thẻo bỗng dưng mất khúc vải "xoa" đắt tiền, lúc có nhiều khách đến lựa hàng. Chị Thẻo lại ngồi kề Tám Thuốc Tây. Như vậy, người ta nghi Tám Thuốc Tây biết đầu mối câu chuyện. Tám Thuốc Tây chối bai bải. Hắn nói hắn chỉ có đôi mắt, không thể nào trông thấu được nhiều đôi mắt. Chị Thẻo tấm tức về rắc muối vào lò lửa đốt "phong long", rồi bỏ qua vụ đó. Nào ngờ sáng sau, mụ bảy câu-thòi-lòi ở xóm trên cứ đi vòng qua vòng lại chỗ Tám Thuốc Tây bán, vừa dậm chân lạch bạch, vừa chửi thề ỏm tỏi:

   - Ðù má, cái quân nào dám nói bà ăn cắp khúc vải "xoa" của con Thẻo đâu? Vỗ ngực xưng tên thử một tiếng coi? Bà quánh thấy mẹ!

   Mụ bảy câu-thòi-lòi có tiếng "chằn ăn trăn quấn" ở khu chợ chồm hổm này. Mụ vừa chôm chỉa, vừa dữ dằn, vừa thiếu nợ dai như đỉa đói. Khi muốn vay mượn ai, mụ mềm mỏng, ngọt xớt như đường phèn. Ðến chừng gây gổ ai, mụ hung dữ, tục tằn...cho đến lúc người ta phải xuống nước năn nỉ - mụ mới bỏ qua.

   Bữa nay mụ lượn quanh Tám Thuốc Tây và dậm chân chửi bới lớn tiếng. Ðiều này, có nghĩa, mụ đã chọn Tám Thuốc Tây là đối tượng. Coi chừng! Quả vậy,, sau một lúc phóng thanh gần khàn cả tiếng, mụ oai vệ tiến đến chộp ngực Tám Thuốc Tây:

   - Ðù má, hôm qua mày nói ai lấy khúc "xoa" của con Thẻo? Mày dám nói lại lần nửa không? Thứ mê gái...rồi sinh tật nói bậy.

   Tám Thuốc Tây run như tên ghiền sì ke vô ý té xuống nước. Hắn nhỏ nhẹ, năn nỉ mụ bảy, mặc dù hắn chẳng đời nào phát ra một chữ với chị Thẻo, chớ đừng nói chi đến vụ tình ái lăng nhăng hoặc trỏ mồm vào việc kẻ khác. Mụ bảy được nước, làm tới. Mụ tru tréo. Mụ xắn áo xắn quần, thượng tay hạ chân, muốn tấn công Tám Thuốc Tây. Bà con chợ chồm hổm phải bu lại can gián. Người ta ôm mụ bảy lại, vuốt ve, rồi phân trần khúc nôi cho mụ bảy rõ cớ sự. Lúc đó, mụ bảy mới nguôi giận, cửng cửng quay bước về nhà.

   Chợ chồm hổm được sinh ra và diễn tiến như thế...trong thời kỳ đổi mới của chế độ cộng sản. Người ta cầu mong nó sẽ "sung"...để trong tương lai không còn cảnh ăn độn, chết đói, chết nghèo...Lúc đó, người ta sẽ không thể nào quên được, những nhân vật "kỳ cục", đã có công khai sinh ra nó.

                                                                 *PHẠM HỒNG ÂN

                                                             (Tháng 11-năm 2003)

.CHAI DẦU GIÓ



(Nhân ngày giỗ Mẹ)

    Vừa tan sở, tôi dzọt thẳng lên Santa Ana cho kịp dự buổi họp mặt đồng hương Cà Mau. Hôm qua, thằng Kiên – bạn học cũ –đã gọi điện thoại nhắc nhở trước:

- Kỳ này, mày phải đến dự nghe thằng quỷù! 40 năm rồi không gặp , bạn bè không thể đoán nổi mặt mày bây giờ dài ngắn thế nào? Con Thùy Nhan nó nhắc mày hoài. Nó nhớ những bài thơ si tình mày làm tặng nó lúc còn đi học…

40 năm xa cách, kể từ năm 1968, tôi rời Cà Mau lên Sài Gòn và không trở lại nữa. Năm đó, cầm mảnh bằng tú tài II trên tay, mỗi đứa trôi dạt mỗi nơi. Ðứa tiếp tục đại học. Ðứa đi lính. Ðứa lấy chồng. Ðứa chui vào mật khu…Cho đến năm 1975, miền nam biến động, chúng tôi hoàn toàn mất tích nhau luôn. Vậy mà, trên cái đất Mỹ xa lạ này, sau 40 năm, chúng tôi lại hội ngộ nhau với đàn con cháu dài thòng như các toa xe lửa.

Những năm trước, năm nào cũng vậy, tôi cứ tìm cách từ chối lời mời họp mặt của Kiên, bởi nhiều lý do chính đáng. Tôi qua Mỹ quá muộn , quá muộn khi tuổi đời chồng chất, nên mặc cảm không còn cơ hội vươn lên như các bằng hữu qua trước. Rồi nghề nghiệp, rồi tài sản…cũng chẳng có gì. Trong lúc bạn bè đã làm nên sự nghiệp. Ðứa kỹ sư, đứa giám đốc, đứa chuyên viên, đứa chủ tiệm…Ðứa nào đứa nấy đều có nhà cao cửa rộng, xe trước xe sau mới toanh bóng loáng.

Năm nay, thằng Kiên nhất định gặp tôi cho bằng được. Nó gọi điện thoại hết ngày tới đêm. Rỉ rả, dặn dò đủ thứ. Nói riết, rồi tôi cũng xiêu lòng. Ðịnh bụng, thử đi một chuyến xem sao?

Cuộc họp mặt được tổ chức ấm cúng ở nhà thằng Hiển. Tất cả không muốn ra nhà hàng. Vì ở đó, phần nào, giảm bớt sự tự do. Và thức ăn, quanh đi quẩn lại, cũng chừng ấy thôi, thưởng thức riết rồi cũng chán phèo. Vợ chồng Hiển khéo léo chọn những bà nội trợ tài giỏi nhất trong đám phu nhân Cà Mau. Các thức ăn quê hương đậm tình dân tộc được lên chương trình gửi đến tận tay mỗi người. Nào: canh chua cá bông lau, cá kho tộ, bún nước lèo, cua lột lăn bột, lẩu lươn…và thêm hàng chục các thức ăn chơi khác mà công tử Bạc Liêu đã từng lịch lãm nếm qua thời xa xưa.

Vòng vo lên xuống một đoạn, tôi cũng mò ra nhà Hiển, sau khi cặp mắt muốn nổ đôm đốm vì quá chăm chú đếm từng bảng số nhà. Nhà Hiển khang trang, có khoảnh sân trước xinh xắn, bao bọc bởi những loài hoa hương sắc lộng lẫy. Một gã đàn ông đầu bạc trắng đang giang rộng vòng tay đón tôi trước cổng.

-Ê! Phải mày không Ân? Tau, Kiên đây!

Tôi nhìn chăm chăm thằng Kiên. Ðầu bạc trắng. Da đồi mồi. Mặt nhăn như mặt khỉ. Trời ơi! Thằng Kiên lóc chóc của 40 năm về trước thật sao? Tôi ôm chầm Kiên, nước mắt tự dưng ứa ra.

-Mày là thằng quỉ Kiên? Thay hình đổi dạng quá! Gặp ngoài đường, chắc hai đứa làm ngơ, không nhận nhau được đâu?

-Mày cũng vậy. Ngày xưa ốm nhom ốm nhách. Bây giờ thù lù và chậm chạp như một lão già nghiện rượu.

Kiên đưa tôi vào nhà giới thiệu từng người. Nếu không nhờ cái tên, tôi sẽ không bao giờ nhận ra được ai. Thời gian như một tay họa sĩ độc ác, dùng nét cọ của tạo hóa, chấm phá những sắc màu xấu trên từng chân dung của con người. Tôi ngỡ ngàng khi gặp lại Thùy Nhan. Nàng cũng tàn phai nhan sắc, bèo nhèo như một cánh hoa tả tơi trước gió chiều. Nhưng lối nói trêu cợt, vẫn là nét đặc trưng của Thùy Nhan, mãi mãi không đổi thay.

-Thi sĩ đây ư? Người luôn luôn xức dầu gió bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông đây ư?

Thằng Kiên chen vào:

-Nó đấy! Cái thằng lúc nào cũng kè kè chai dầu gió trong người đấy!

Cả nhóm nhìn tôi cười vang. Những kỷ niệm học trò chợt ùa về trong mỗi người.

Thùy Nhan không tha:

-Ngày xưa, nếu Ân không có mùi dầu gió, có thể Thùy Nhan đã trở thành người nâng khăn sửa túi cho Ân lâu rồi.

Thằng Hiển và mọi người cùng ồ lên:

-Tại sao? Tại sao?

-Vì những bài thơ tình của Ân. Những bài thơ não nuột và bi ai quá cỡ thợ mộc. Nó đã đụng vào trái tim của Thùy Nhan.

Mọi người chọc ghẹo:

-Thế thì bây giờ…Nếu không còn mùi dầu gió, trái tim của hai người có sẵn sàng hòa chung một nhịp chưa?

Thùy Nhan luống cuống. Cô tiểu thư kiêu hãnh ngày xưa không ngờ bạn bè lại quay ngược mũi chỉa, chỉa vào nàng. Thằng Kiên chỉa thêm:

-Trước khi qua Mỹ, thằng quỉ sứ này đã vứt bỏ chai dầu lạc hậu nơi xó xỉnh nào bên Việt Namrồi, phải vậy không Ân?

Tôi cúi đầu không nói, lặng lẽ moi từ túi quần ra chai dầu Nhị Thiên Ðường, nhẹ nhàng đặt lên bàn ăn. Mọi người cùng ồ lên, trố mắt nhìn chai dầu, rồi nhìn tôi lắc đầu. Thùy Nhan đắc chí, ôm bụng cười ngửa nghiêng.

-Trời ơi! Giờ này mà còn mang kè kè trong mình chai dầu bệnh hoạn. Mình đưa hai tay lên đầu hàng. Hết ý kiến rồi Ân ơi!

Tôi lại cúi đầu, ôn tồn nói với bạn bè, và cũng như nói với chính mình:

-Chai dầu gió, đối với tôi như một báu vật, một tài sản tinh thần mà Mẹ tôi đã thiết tha để lại cho tôi.

Thằng Hiển xoay tròn một vòng.

-Báu vật? Mày có điên không Ân? Chai dầu này ở đây chỉ đáng giá vài đồng bạc.

Tôi lại cúi đầu, buồn bã nhìn từng người bạn.

-Thôi, sau tiệc, tôi sẽ kể cho các bạn nghe vì sao tôi coi chai dầu như báu vật. Bây giờ, trước khi nhập tiệc, chúng ta hãy nhắc và tưởng tiếc đến các bạn vắn số đã nằm xuống thời gian qua.

Nhóm Cà Mau lần lượt nhắc lại cái chết hào hùng của các bạn thơ : Dạ Linh Phương (Nguyễn văn Ðắc), Chu Thiên ( Cao văn Chiến), Trầm Uyên Mỵ (Tăng quang Minh), Diễm Ca Hồng (Lý Cá Hai), Huỳnh Thiên Lượng, Nguyễn văn Tuấn…Ðặc biệt, bạn thơ Chu Thiên đã tình nguyện xung phong vào Lực Lượng Ðặc Biệt, từng nhảy toán nhiều lần ra Bắc, và đã gục ngã ở một nơi nào đó trong sào huyệt địch. Trầm Uyên Mỵ nằm xuống trên đỉnh Tô Châu, trên tay còn cầm bài thơ viết dở dang cho người tình. Gần đây nhất, tại Washington D.C., bạn thơ Giang Hữu Tuyên, chủ nhiệm kiêm chủ bút Hoa Thịnh Ðốn Việt Báo đã đột tử vì căn bệnh hiểm nghèo.

Bữa tiệc vơi dần. Nhưng bạn bè vẫn còn ngồi đó đông đủ. Họ chưa muốn vội chia tay. Họ muốn ôn kỷ niệm, cố níu kéo nhau để giữ lại thân tình. Họ cũng muốn tôi kể lại báu vật chai dầu gió. Vâng, hãy để quá khứ quay về, quay về một cách tự nhiên…

Ngay từ lúc ra đời, tôi đã là một thằng bé èo uột, khó nuôi. Mẹ tôi tất tả ngược xuôi, chạy thầy chạy thuốc khắp nơi để mong tôi thoát khỏi bệnh tật. Tôi lớn lên như một cọng cỏ tong teo, chỉ cần chút gió nhẹ thổi qua là đã muốn ngã quỵ. Chạy tây y không xong, Mẹ tôi lại chạy qua đông y, rồi thầy bùa, thầy pháp…Tôi được trao thẳng cho ông thầy pháp làm con nuôi, được đặt tên riêng là Săng Mây. Nghe Mẹ kể lại, mỗi lần tôi khóc nhè, ông thầy đặt tôi lên chiếc bàn cao lêu nghêu, rồi hô phong hoán vũ, dùng roi mây đập tứ tung xung quanh, miệng không ngớt lâm râm án nị cà ra nà…Nhưng thật lạ thay, sau một thời gian làm đệ tử thầy, bệnh tình tôi đã mười phần thuyên giảm còn ba. Tôi không còn khóc đêm nữa. Các bệnh yếu ớt vặt vãnh cũng bớt đi, chỉ khi nào tiết trời thay đổi, tôi mới bị cảm lạnh mà thôi. Có lẽ, khi nhìn thấy bộ mặt vằn vện và thái độ hung dữ của ông pháp sư, các virus trong người quá sợ hãi, nên đã ngã lăn ra chết queo. Lớn lên một chút, khi tôi biết nói, và bước chân vào tiểu học, Mẹ tôi mới phát giác ra tôi bị đau bụng đêm. Thế là, chai dầu gió được gắn liền với đời tôi , ngay từ lúc đó.

Thập niên 50, thị xã Cà Mau nhỏ xíu như một cái bánh bao. Ngôi chợ thấp lè tè. Ði vòng vo vài ba phút đã hết các con đường. Ba tôi là một công chức trong sở cảnh sát tỉnh. Ba giỏi tiếng Pháp. Lúc trẻ đã có một thời làm thông ngôn cho người Pháp. Ngược lại, Mẹ tôi học rất ít,chữ viết nguệch ngoạc, và làm toán bằng cách tính nhẩm theo các đầu ngón tay. Vậy mà những bài vỡ lòng đầu tiên , kể cả cuốn giáo khoa thư…Mẹ tôi đã dạy tôi thuộc làu, trước khi bước chân vào lớp học. Tôi còn nhớ chai dầu nhị thiên đường màu nâu sẫm, mùi nồng cay, nhưng ấm áp một cách an lành. Lần nào cũng vậy, sau khi mặc vào bộ đồng phục học trò, Mẹ vén áo tôi lên, xoa dầu vào rún, rồi vào hai bên thái dương, xong cẩn thận bỏ chai dầu vào túi quần tôi, âu yếm nói :

-Con giữ chai dầu, đừng làm mất. Tuy nó nhỏ nhoi, đơn sơ – nhưng là thần hộ mạng cho con, cho mọi người đấy! Khi ra ngoài trời, con nhớ xoa dầu vào hai bên thái dương, xoa dưới cổ và phía sau ót để ngừa cảm mạo thương hàn. Khi đau bụng, xoa vào rún. Khi té, trặc chân tay, xoa vào các vết trặc. Sau này lớn lên, Mẹ sẽ chỉ cho con các huyệt đạo, để lỡ gặp tai ương, con có thể tự cứu mình, cứu người.

Thật vậy, nhờ chai dầu gió, cơn đau bụng đêm oằn oại của tôi đã dịu đi và mất hẳn. Tôi cũng vơi dần những cơn cảm mạo khó chịu mỗi khi trái gió trở trời. Tôi lướt qua tuổi thiếu niên, rồi tuổi thanh niên vùn vụt đến. Tôi đi khắp chốn, đến Cần Thơ thi tú tài, lên Sài Gòn vào đại học. Chỗ nào, nơi đâu…chai dầu gió của Mẹ tôi cũng được cẩn thận nằm trong túi quần.

Năm 1970, chiến tranh bùng nổ khắp miền nam. Tôi chán học, tình nguyện vào lính. Ngày vào quân trường, Mẹ tôi bùi ngùi tiễn tôi lên đường. Nhà nghèo, hành lý mang theo chẳng có gì đáng giá. Nhưng khi xách lên tay, tôi chợt có cảm giác nằng nặng.

-Mẹ ơi! Tối qua Mẹ đã cho con tiền rồi. Hôm nay Mẹ lại để gì nằng nặng trong túi con thế này?

-Có mấy lố dầu nhị thiên đường Mẹ mua cho con, để dành mà phòng gió sương cảm mạo. Con thường đau bụng, nhớ mổi tối xoa vào rún trước khi đi ngủ. Các bạn lính của con, ai trúng gió trúng sương, con làm phước cạo gió và xoa dầu vào các huyệt đạo cứu họ.

Tôi rưng rưng nước mắt nhìn Mẹ. Tự dưng tôi muốn chùn bước, muốn quay trở lại mái nhà thân yêu, muốn ngã vào vòng tay ấm áp của Mẹ, bỏ ý định đi lính. Nhưng …quay trở lại…để làm gì? Ðể tiếp tục sống bám vào những ly cà phê Mẹ bán từng đồng từng cắc hay sao? Năm 1963, nền đệ nhất cộng hòa xụp đổ, quyền lực tập trung vào tay các Tướng lãnh tự xưng là Cách Mạng. Tổng Thống bị giết, kéo theo các viên chức thân cận bị trù dập hoặc bị cầm tù. Ba tôi là một trong những viên chức thân cận của nền đệ nhất cộng hòa phải bỏ việc chạy trốn. Ông chạy trốn khắp nơi và cuối cùng đành vĩnh viễn bỏ vợ và các con ở lại Cà Mau. Từ đó, gia đình tôi bắt đầu suy sụp. Và một tay Mẹ buôn gánh bán bưng, nuôi các anh em tôi đều học hết bậc trung học.

Chai dầu gió theo tôi trôi giạt các chiến trường. Nó theo tôi bồng bềnh ra Phú Quốc, lăn lóc về Hà Tiên, đêm đêm nằm trên duyên tốc đỉnh đếm các cụm mây lang thang ngang các hòn đảo lạ lùng. Ðêm đêm xoa dầu vào bụng, mùi dầu nồng nồng cay cay trộn lẫn với tình Mẹ cao thượng, làm lòng tôi chợt ấm áp vô cùng. Ðêm đêm, mùi dầu như ngọn lửa thiêng xua tan đi giá lạnh, sưởi nóng tâm trạng cô đơn bệnh hoạn của tôi một cách diệu kỳ. Rồi có một lần, tôi chưa kịp đem chai dầu gió làm phước cứu đồng đội, thì tôi là người ngã quỵ trước tiên giữa cơn bão điên cuồng thổi băng qua Bắc Ðảo. Duyên tốc đỉnh nhỏ bé không có y tá đi theo, chỉ có những dụng cụ cứu thương sơ sài. Ðồng đội phải xúm lại hô hấp nhân tạo, rồi dùng chai dầu của tôi cạo gió, xoa bóp các huyệt. Và thật là kỳ lạ, mùi dầu nồng nàn cộng với mùi tình Mẹ ấm áp đã đánh thức tôi dậy, tiếp tục chuyến viễn du cuộc đời.

Tháng 4 năm 1975, nền đệ nhị cộng hòa tan rã. Như một định mệnh – tương tự trường hợp Ba tôi ngày trước – tôi và đồng đội lần lượt vàocác trại tù. Lần này, số phận gia đình tôi bi thảm hơn nhiều. Người anh thứ tư mất tích vĩnh viễn trên đường rút quân của sư đoàn II bộ binh. Các anh em khác chịu chung cảnh ngộ cá chậu chim lồng. Mẹ tôi chạy loạn tứ tung, cuối cùng về Chương Thiện tá túc với người chị bà con, trông ngóng từng đứa con thất lạc trở về. Tôi gặp Mẹ tôi trong màn nước mắt ngậm ngùi. Tôi ôm thân xác còm cõi của Mẹ vào lòng mà tưởng chừng hàng nghìn đớn đau đang gặm nhấm trái tim mình. Gia cảnh của chị tôi cùng chịu chung số phận khổ đau. Cái bàn thờ giữa nhà khói nhang còn nghi ngút, bên cạnh là di ảnh cháu tôi, vừa được gia đình thương tiếc đặt lên. Cách đây vài hôm, ở sân vận động Cần Thơ, việt cộng đã xử bắn một nhóm quân nhân (họ cho là phiến loạn), trong đó có đứa con đầu lòng của chị tôi.

-Mẹ ơi! Chị ba đang gặp cảnh đau buồn. Gia đình mất hết công ăn việc làm. Mẹ ở đây, làm sao sống được?

-Con đừng lo. Mỗi ngày Mẹ làm bánh, bưng đi bán từng nhà. Người ta thấy Mẹ lụm cụm, họ thương tình…mua sạch trơn.

Nói xong, Mẹ nhìn tôi, âu yếm nở nụ cười thật tươi trên đôi môi khô héo. Tôi biết Mẹ cố gắng trấn an tôi, chớ thời buổi bây giờ bữa đói bữa no, thiên hạ làm gì có tiền để mua bánh Mẹ hàng ngày.

-Mẹ ơi! Ngày mai con sẽ về Mỹ Tho trình diện cải tạo. Không biết thời gian trong đó bao lâu? Có lẽ chỉ ngắn hạn thôi. Mẹ ở lại bình an và gắng giữ gìn sức khỏe nha Mẹ! Khi có dịp, con sẽ biên thư đều đều về cho Mẹ.

-Ði đâu, lên rừng hay xuống biển, con cũng nên nhớ để chai dầu trong túi hộ thân và làm phước cứu người nha con! Mẹ chỉ cho con các huyệt đạo căn bản, con còn nhớ không? Ðây, khi gặp ai ngất xỉu, dù ngất xỉu vì bất cứ trường hợp nào, con cố gắng đặt họ nằm thẳng người ra, bình tĩnh dùng kim châm vào nhân trung, rồi khéo léo nặn máu của bệnh nhân ra. Vài giây sau, nếu họ vẫn bất động, con tiếp tục châm kim vào mười đầu ngón tay, và cũng nặn máu ra như huyệt trên. Chậm lắm là vài phút sau, họ sẽ tỉnh dậy. Chiều nay, Mẹ sẽ tìm cho con 1 số dầu, mang vào trại tù để phòng ngừa bệnh hoạn nha con!

Hành trang vào tù của tôi vỏn vẹn chỉ có cái mùng nhà binh, một tấm drap làm mền, vài bộ đồ cá nhân và những lố dầu lĩnh kĩnh của Mẹ, Nhưng nặng nề nhất, trong trái tim tôi đã mang theo tình thương bao la của Mẹ, tình yêu của người vợ trẻ và đứa con trai dễ thương chỉ vừa tròn 6 tháng tuổi. Vào tù, tôi học thêm khoa châm cứu từ người bạn tù rất thân. Chúng tôi lấy dây điện thoại cắt rời ra để làm những ngọn kim châm cứu dã chiến. Từ đó, chúng tôi thay phiên nhau đi khắp trại tù làm phước cho những tù nhân đau yếu, bệnh tật. Khi cứu giúp ai, hình ảnh bác ái của Mẹ tôi chợt hiện ra hiền hậu trong tim, khiến cõi lòng tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc.

Ðiều làmxót xa nhất, mà mãi cho tới giây phút này tôi vẫn còn xốn xang, ray rức – đó là hình ảnh Mẹ tôi lội nước thăm nuôi ở trại tù Cai Lậy, lúc trận lụt năm 1978 là trận lụt lớn nhất lịch sử, so với các trận lụt từ trước tới nay trên đồng bằng sông Cửu Long. Năm đó, lụt lớn, lũ tràn đầy. Nước dâng ngập đường đi. Nước leo lên quốc lộ 4. Nước đẩy các sam tù ngửa nghiêng theo sóng. Tù nhân suốt ngày dầm mình dưới nước: chống, đỡ, buộc, rịch…các cột kèo sắp bị sức nước cuốn phăng. Ban đêm, trèo lên mái sam phơi gió phơi sương, ngủ chung với rắn, rít, chuột, dán…Ngày, nước dâng đến đỉnh cao nhất lại là ngày thăm nuôi. Nơi cao ráo nhất là con lộ nằm trước cổng trại tù. Vậy mà Mẹ tôi đứng đó, nước đã mấp mé khỏi bụng. Mẹ ướt loi ngoi từ bao giờ. Có lẽ dầm nước lâu rồi, nên Mẹ mới đánh bò cạp, toàn thân run lẩy bẩy. Chiếc xuồng kế bên chất đầy bao bị thăm nuôi của thân nhân. Họ đứng xung quanh xuồng chờ đợi tù nhân ra gặp mặt. Họ là những người vợ trẻ chắt chiu nuôi chồng. Dù sao họ vẫn còn khỏe mạnh, chỉ có Mẹ tôi là già yếu đang run rẩy chờ con trong dòng lũ giá lạnh. Thế mà khi gặp tôi, Mẹ vẫn nở nụ cười phúc hậu trên đôi môi đã xanh mét. Cái bao thăm nuôi của Mẹ ngoài các thức ăn khô và mớ thịt chà bông hảo hạng, còn cómón quà nặng nhất – là những chai dầu gió và những lời nhắn nhủ đậm đà. Không, tôi đã quên một điều, món quà nặng nhất là tình thương sâu thẳmcủa Mẹ đang đầy ắp trong cái bao thân yêu này.

Rồi 6 năm nặng nề trôi qua, nhốt chán, họ cũng thả tôi ra trại tù. Bơ vơ không cửa không nhà, đành theo vợ về quê cuốc giồng trồng khoai sống tạm qua ngày. Mẹ tôi lại lên thăm đều đều. Lần thăm nào Mẹ cũng nhét vào túi tôi mấy chai dầu và các thức ăn khô đủ loại. Rồi có một hôm, nhân dịp tết nguyên đán, cả nhà quây quần bên nhau đón giao thừa. Ông anh vợ tôi quá chén, say bí tỉ. Sáng hôm sau, cả nhà đều thức dậy, nhưng chỉ riêng anh tôi vẫn còn nằm im trong phòng. Ðến trưa, cửa phòng vẫn khép kín. Một nỗi vắng lặng trùm phủ xung quanh. Cả nhà hoảng hốt, tông cửa vào.Anh tôi đã nằm bất động từ lúc nào, tay chân lạnh ngắt như ướp nước đá, phía dưới đất có một đàn kiến đang đua nhau bò lên thân thể anh. Người ta vội la to. Cả nhà chạy gọi y tá và các thầy đông y trong xóm. Y tá làm hô hấp nhân tạo. Các thầy đông y bắt mạch, cạo gió, cắt giác…đủ thứ. Cuối cùng, họ bó tay, ngậm ngùi chia buồn với chủ nhà:

-Thôi, thằng hai đã yên phận rồi. Cả nhà hãy gạt buồn đau để lo cho nó đi!

Vợ tôi vừa chùi nước mắt vừa tức tốc chạy ra giồng khoai kiếm tôi:

-Anh ơi! Anh ơi! Về mau, về mau. Anh Hai mất rồi.

Tôi quăng vội cây cuốc vào góc chuối, la lên:

-Sao? Ðêm qua ảnh còn cụng ly với tui kia mà?

-Về mau. Ở đây mà còn đôi co trăng với sao chi nữa?

Tôi phóng một mạch về đến nhà. Nhảy thẳng lên giường áp tai vào ngực anh tôi. Tôi nghe trái tim đập thoi thóp, thoi thóp. Lồng ngực còn âm ấm, có nghĩa là anh tôi chưa thật sự về với ông bà. Tôi lật đật móc chai dầu ra, và réo to lên:

-Ðưa dùm tui cái kim may , mau lên. Anh hai chưa chết đâu. Còn nước còn tát bà ơi!

Hình ảnh phúc hậu của Mẹ tôi chợt hiện ra. Những lời nhắn nhủ bác ái của Mẹ chợt văng vẳng bên tai. Ðây, huyệt nhân trung. Tôi xoa dầu vào huyệt, châm mạnh. Tôi kiên nhẫn dùng hai đầu ngón tay bóp mạnh vào chỗ vừa châm. Bóp, nặn. Nặn, bóp… lúc lâu – một giọt máu bầm đen mới trồi lên khỏi huyệt. Tôi chùi máu, đợi chờ. Cả nhà nín thở nhìn vào anh không chớp mắt. Có người nức nở cầu nguyện. Có người đau đớn, khóc than. Năm phút, mười phút trôi qua…Anh tôi vẫn bất động. Tôi nhào xuống hai bàn tay, kéo những đầu ngón tay đặt ngửa lên đùi mình. Rồi xoa dầu. Rồi châm kim thẳng vào. Rồi nặn máu thật mạnh. Mười đầu ngón tay nhô lên mười giọt máu hồng. Tôi chùi máu, xoa dầu…rồi tiếp tục nặn máu. Năm phút, mười phút trôi qua…Anh tôi vẫn bất động. Cả nhà tuyệt vọng, ngã gục xuống, than khóc. Nhưng,như có một phép mầu kỳ diệu, hai bàn tay của anh tôi bỗng dưng ngo ngoe, cử động. Rồi toàn thân anh tôi lăn nghiêng qua một bên. Lúc đó, khuôn mặt anh tôi nhăn nhó, mắt mới hé mở, và miệng mới bắt đầu thì thào:

- Ôi, ôi! Ðau mình quá! Cho tôi xin miếng nước uống đi!

Cả nhà reo vang, mừng rỡ. Cả nhà kéo lại, vây quanh anh tôi bóp tay nắn chân, cười nói huyên thiên. Họ đã quên tôi. Họ không biết tôi đang ôm hôn chai dầu gió với niềm hạnh phúc dâng tràn.

Năm 1993, diện HO lan rộng. Tôi đành chia tay với Mẹ, cùng với vợ con sang Mỹ lập nghiệp. Ðất lạ, người mới, cộng với nền văn minh cực thịnh của một cường quốc nổi tiếng, tôi sợ bơ vơ và lạc lõng ở nơi đó vô cùng. Tôi cũng không đem được Mẹ tôi theo để khi hoạn nạn có nhau, để khi khổ đau còn có tình thương Mẹ an ủi, đắp bồi. Trước khi gia đình tôi lên đường, Mẹ tôi từ Chương Thiện về Bến Tre chơi với chúng tôi vài tháng. Trong vài tháng này, Mẹ xử dụng tất cả tài năng về gia chánh mà Mẹ đã học hỏi từ ngày còn thiếu nữ, mỗi ngày một món ăn ngon để gia đình tôi bồi dưỡng. Mẹ sợ, khi qua Mỹ, tôi sẽ không còn dịp được thưởng thức những đặc sản quê hương. Mẹ lo cho con dâu, cho cháu nội từng manh quần tấm áo, như vá lại những mảnh rách, khâu lại từng chiếc mùng, chiếc mền…

Ngày tiễn ra phi trường, Mẹ cứ lấy khăn quàng vai chậm lên mắt. Lúc này, nhìn kỹ, tôi đã thấy Mẹ lụm cụm và già yếu lắm rồi. Nhưng Mẹ vẫn giả vờ vui vẻ, cười nói huyên thiên để tôi an tâm lên đường.

-Ðêm qua, Mẹ đã nhét vào túi xách con những lố dầu Nhị Thiên Ðường. Qua bên đó, nhớ giữ bên mình, phòng khi trái gió trở trời. Bà con đồng hương, hay dân bản xứ cũng vậy, hễ ai mắc bệnh dọc đường dọc xá, con làm phước cứu họ. Xài lâu, gần hết dầu, nhớ biên thư cho Mẹ. Mẹ sẽ tìm cách gửi dầu qua cho con. Nhớ nha!

Lời Mẹ dặn, tôi vẫn ôm theo trong lòng. Chai dầu gió, tôi vẫn kè kè trong túi. Tôi mang chai dầu đi khắp bốn phương, dong ruổi qua các tiểu bang, làm việc trong nhiều hãng xưởng. Mỗi sáng sớm đến sở làm, trời lạnh căm, trước khi lái xe đi, tôi mở chai dầu xoa lên mũi, xoa lên thái dương, xoa trước cổ, xoa sau ót...như lời Mẹ tôi căn dặn từ thuở ấu thơ đến giờ. Khi mùi dầu bay lên nồng nàn và ấm áp, tự nhiên hình ảnh bác ái của Mẹ hiện ra một cách tin yêu, khiến hạnh phúc bỗng dưng trào dâng, xua tan đi cái giá lạnh rét mướt của mùa đông xứ người. Và ở đây, nơi đất Mỹ xa lạ, tôi cũng đã từng cứu được một đồng nghiệp người Mễ tên Daniel, khi tên này bị một cú “sốc” bởi cholesterol ngã quỵ trên sàn máy.

Mãi đến năm 2001, tôi mới trở lại Việt nam thăm Mẹ. Lúc này, Mẹ tôi đang nằm bệnh viện vì chứng suy tim trầm trọng. Người ta dành cho Mẹ tôi một căn phòng nhỏ đủ để kê chiếc giường cá nhân, và một lối đi hẹp dành cho bác sĩ đến khám bệnh. Anh tôi trải chiếu xuống lối đi đó, mỗi đêm, săn sóc và canh chừng Mẹ tôi. Tôi đến khi Mẹ còn say ngủ. Tội nghiệp, chưa đầy 10 năm, Mẹ tôi đã thay hình đổi dạng một cách rất đau lòng. Ðó là một cụ già da bọc xương, nằm co quắp, tay chân rút lại như tấm hình nộm. Tôi sửng sờ nhìn Mẹ, nước mắt tự nhiên tuôn tuôn, không kiềm chế được.

-Mẹ ơi! Con về bên Mẹ đây này! Mẹ có nhận ra con không?

Mẹ tôi từ từ mở mắt ra, nụ cười méo xệch nở trên đôi môi héo hắt. Mẹ đưa cánh tay khẳng khiu về phía tôi, nước mắt trào ra.

-Mẹ nói đi, con nghe. Trong người Mẹ bây giờ thế nào? Có khỏe không?

Mẹ tôi mở miệng định nói, nhưng không thể nói được. Hình như hàm Mẹ tôi bị cứng và hệ thống thanh quản có vấn đề. Mẹ chỉ còn biết nhìn tôi, gật gật đầu. Tôi mở túi xách lôi ra vô số thuốc men, nào là : thuốc bổ, thuốc dưỡng tim, thuốc đau nhức, sữa ensure, sâm đại hàn …Mẹ tôi nhìn vào số thuốc lĩnh kĩnh, lắc đầu buồn rầu. Tiếng anh tôi phía sau vọng lại:

-Mẹ không còn nhai được nữa em ạ! Nuốt cũng rất khó khăn. Bác sĩ cho uống viên thuốc chỉ lớn bằng đầu đũa, anh phải tán ra thành bột, rồi pha nước, đút từng chút cho Mẹ uống.

-Thế...bác sĩ không có cách nào khác sao?

-Họ nói, chỉ có cách cho Mẹ ăn thức ăn lỏng và đút từ từ thôi.

Mẹ tôi trở mình, vói tay lên đầu giường, cầm lấy chai dầu gió đưa ra trước mặt tôi. Như một tín hiệu thân thương, tôi cũng móc chai dầu gió từ túi quần đưa thẳng trước mặt Mẹ.

-Mẹ đừng lo. Con luôn luôn vâng lời Mẹ. Báu vật này con mãi giữ bên mình. Con vẫn làm phước cứu người trong lúc nguy khốn.

Mẹ tôi gật đầu, cười trọn vẹn. Rồi Mẹ ngoắc tôi đến gần, lần tay xuống gối móc ra một gói giấy nhỏ. Tôi nhận gói giấy, tò mò và hồi hộp mở ra. Ðó là một tờ giấy được xé ra từ cuốn tập học trò. Mẹ tôi đã viết đầy trên đó, rồi cẩn thận xếp nó lại làm sáu làm bảy, giấu trong lần gối. Tôi run run trải tờ giấy ra, chăm chú đọc từng dòng. Thằng bảy mượn 3 chỉ vàng, thằng Út mượn 300 đô, vợ thằng bảy mượn 200, con Xuân mượn 500, chồng con Ðông thế chiếc xe đạp lấy 200…Toàn bộ số tiền thằng Ân gửi về cho Mẹ từng đợt, tụi nó đã hỏi mượn và chưa ai trả cho Mẹ.

Trời ơi! Có thật sự anh em, họ hàng tôi đã nghèo nàn đến thế sao? Những lần tiền tôi gửi về giúp Mẹ, lần lượt rơi vào tay của họ mất rồi.Mẹ tôi , ôi! người Mẹ đã có tấm lòng bao la như biển cả.

Gần một tháng bên Mẹ, những đồng đô la của tôi vung ra tứ tung…vẫn không làm sức khoẻ của Mẹ tôi khả quan hơn. Thất vọng, tôi đành phó thác cho số mệnh, trở về Mỹ tiếp tục công ăn việc làm. Một tháng sau, Mẹ tôi mất. Dù chuẩn bị trước chuyện buồn sẽ xảy ra, nhưng tôi vẫn rời rã khổ đau, không làm được việc gì suốt mấy tháng trời. Mẹ tôi mất đi, hình như chưa thật sự an tâm nhắm mắt. Ðám táng cử hành rất kỳ lạ. Người chị tôi theo Phật giáo, chị rước một ông sư về tụng kinh siêu thoát cho Mẹ tôi. Còn ông anh tôi theo Tin Lành thì mời Mục sư về cầu nguyện cho Mẹ sớm về cõi Thiên Ðàng. Hai bên chống cự , phản đối nhau quyết liệt. Không bên nào chịu nhường bên nào. Họ sợ linh hồn Mẹ tôi vất vưỡng phiêu linh, lạc mất lối về. Tôi gọi điện thoại cho chị tôi giãi thích và đưa ra một ý kiến công bình. Từ năm 1980, Mẹ theo đạo Tin Lành. Mẹ đã làm lễ Báp Têm và xức dầu Thánh rồi, chị hãy để cho Mục Sư cử hành đám táng cho Mẹ đi.

Chai dầu gió luôn luôn nằm trong túi quần tôi. Tôi mãi khư khư giữ nó cho đến giờ phút tôi trở về cát bụi. Mặc ai phản đối, mặc ai trêu chọc, nó vẫn luôn là Thần Hộ Mệnh cho tôi, cho gia đình tôi, và cả cho những ai không may gặp hoạn nạn dọc đường.

                                                                  *PHẠM HỒNG ÂN

                                                              (Escondido, 23/01/2011)